Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2014

VAI TRÒ CÁC THIỀN SƯ ĐẾN TRIỀU LÝ (PHẦN 1)

Bài viết của TMH
Ảnh hưởng của các thiền sư đến triều Lý
Nhà Lý hoặc Lý triều (Hán-Nôm家李李朝nhà Lý • Lý triều), còn được gọi là nhà Hậu Lý (Hán-Nôm家後李後李朝nhà Hậu Lý • Lí Hậu triều) (để phân biệt với nhà Tiền Lý của Lý Nam Đế), là một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam. Triều đại này bắt đầu khi vua Thái Tổ lên ngôi tháng 10 âm lịch năm 1009, sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê, trải qua 9 triều vua và chấm dứt khi vua Lý Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 7 tuổi bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm.
Trong thời đại của vương triều này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một cách lâu dài đến hơn hai trăm năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm, ngoài ra nhà Lý còn bảo toàn và mở rộng lãnh thổ của mình. Trong nước, mặc dù các vua đều sùng bái đạo Phật, nhưng ảnh hưởng của Nho giáo đã bắt đầu lớn dần, với việc mở các trường đại học đầu tiên là Văn miếu (1070) và Quốc tử giám(1076), và các khoa thi để chọn người hiền tài không có nguồn gốc xuất thân là quý tộc ra giúp nước. Khoa thi đầu tiên được mở vào năm 1075. Về thể chế chính trị, đã có sự phân cấp quản lý rõ ràng hơn và sự cai trị đã dựa nhiều vào pháp luật hơn là sự chuyên quyền độc đoán của cá nhân. Sự kiện nhà Lý chọn thành Đại La làm thủ đô (sau là Thăng Long tức Hà Nội ngày nay) đánh dấu sự cai trị dựa vào sức mạnh kinh tế và lòng dân hơn là sức mạnh quân sự để phòng thủ như các triều đại trước. Ở thời này có những sự kiện đáng nhớ của lịch sử Việt Nam: việc dời đô từ Hoa Lư, một nơi ở góc đông nam đồng bằng Bắc Bộ, thưa dân, hiểm trở ra Đại La, rồi đặt tên mới là Thăng Long theo hình tượng con rồng, một hình tượng đặc thù của thời này; quốc hiệu Đại Việt của Việt Nam có từ tháng 10 âm lịch năm 1054 và được duy trì đến đầu thế kỷ 19; Việt Nam tứ đại khí ,Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, Tháp Báo Thiên, Chuông Quy Điền, Vạc Phổ Minh,  Hệ thống tự viện bao gồm Đền, Đình, Chùa, Thiền viện gắn với tên tuổi của các thiền sư, Đạo Phật trở thành quốc giáo, quá trình Thành, Trụ, Hoại, Không của triều đại này gắn liền với Phật Giáo, Tam giáo đồng nguyên, sự hòa hợp hoàn hảo giữa Phật, Nho, Lão với sự ra đời của Văn Miếu và Quốc tử giám, trường học, hệ thống khoa cử đầu tiên của Việt Nam
Hệ thống pháp luật bằng văn bản mang màu sắc Phật giáo cũng bắt đầu có dưới triều đại này.
Niên biểu các vị vua triều Lý





Vua
Miếu hiệu
Thụy hiệu
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
1
Thần Vũ Hoàng đế
Thuận Thiên (1010-1028)
1009 - 1028
2
không có
Thiên Thành (1028-1033)
Thông Thụy (1034-1038)
Càn Phù Hữu Đạo (1039-1041)
Minh Đạo (1042-1043)
Thiên Cảm Thánh Võ (1044-1048)
Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054)
Lý Phật Mã
Lý Đức Chính
1028 - 1054
3
Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Tường Minh Văn Duệ Vũ Hiếu Đức Thánh Thần Hoàng đế
Long Thụy Thái Bình (1054-1058)
Thiên Thánh Gia Khánh (1059-1065)
Long Chương Thiên Tự (1066-1068)
Thiên Thống Bảo Tượng (1068 - 1069)
Thần Vũ (1069-1072)
Lý Nhật Tôn
1054 -  1072
4
Hiếu Từ Thánh Thần Văn Vũ Hoàng đế
Thái Ninh (1072-1076)
Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084)
Quảng Hựu (1085-1092)
Hội Phong (1092-1100)
Long Phù (1101-1109)
Hội Tường Đại Khánh (1110-1119)
Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126)
Thiên Phù Khánh Thọ (1127-1127)
1072 - 1127
5
Quảng Nhân Sùng Hiếu Văn Vũ Hoàng đế
Thiên Thuận (1128-1132)
Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138)
Lý Dương Hoán
1127- 1138
6
Thể Thiên Thuận Đạo Duệ Văn Thần Võ Thuần Nhân Hiển Nghĩa Huy Mưu Thánh Trí Ngự Dân Dục Vật Quần Linh Phi Ứng Đại Minh Chí Hiếu Hoàng đế
Thiệu Minh (1138-1139)
Đại Định (1140-1162)
Chính Long Bảo Ứng (1163-1173)
Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175)
Lý Thiên Tộ
1128 -1175
7
không có
Trinh Phù (1176-1185)
Thiên Tư Gia Thuỵ (1186-1201)
Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1204)
Trị Bình Long Ứng (1205-1210)
Lý Long Cán
Lý Long Trát
1176 -1204
8
không có
không có
không có
1209 -1209
9
không có
Kiến Gia (1211–1224)
Lý Sảm
Lý Hạo Sảm
1211 - 1224
10
không có
Càn Ninh (1214–1216)
không rõ
1214 - 1216
11
không có
Thiên Chương Hữu Đạo (1224–1226)
Lý Phật Kim
Lý Thiên Hinh
1224 - 1226

Các thiền sư tiêu biểu thời lý


Vua
Trị vì
Niên hiệu
Thiền sư
Nhập thế
Dòng phái
1
1009 - 1028
Thuận Thiên (1010-1028)
Vạn Hạnh
Đa Bảo
938 – 1025
2
1028 - 1054
Thiên Thành (1028-1033)
Thông Thụy (1034-1038)
Càn Phù Hữu Đạo (1039-1041)
Minh Đạo (1042-1043)
Thiên Cảm Thánh Võ (1044-1048)
Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054)
Định Hương
Huệ Sinh 
Thiền lão
Bảo Tính
Minh Tâm

Vô ngôn thông
3
1054 -  1072
Long Thụy Thái Bình (1054-1058)
Thiên Thánh Gia Khánh (1059-1065)
Long Chương Thiên Tự (1066-1068)
Thiên Thống Bảo Tượng (1068 - 1069)
Thần Vũ (1069-1072)
Huệ Sinh 
Quảng Trí
Cửu Chỉ

Thảo đường

Vô ngôn thông
4
1072 - 1127
Thái Ninh (1072-1076)
Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084)
Quảng Hựu (1085-1092)
Hội Phong (1092-1100)
Long Phù (1101-1109)
Hội Tường Đại Khánh (1110-1119)
Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126)
Thiên Phù Khánh Thọ (1127-1127)
Từ Đạo Hạnh
Quốc sư Thông Biện
Mãn Giác
Viên Chiếu
Không lộ

Giác Hải


1065- 1141


1052-1096
999-1090
-1119
Thảo đường

5
1127- 1138
Thiên Thuận (1128-1132)
Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138)
Lý Quốc Sư 



1080-1151
Thảo đường

6
1128 -1175
Thiệu Minh (1138-1139)
Đại Định (1140-1162)
Chính Long Bảo Ứng (1163-1173)
Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175)
Quốc sư Viên Thông
Đạo Huệ
Bảo Giám
Bản Tịnh
Tịnh Không
Đại Xả
Tinh lực
Trường Nguyên


-1173?
1100-1176
1091-1170
1120-1180
1112-1175
1110 -1165
Thảo đường

7
1176 -1204
Trinh Phù (1176-1185)
Thiên Tư Gia Thuỵ (1186-1201)
Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1204)
Trị Bình Long Ứng (1205-1210)
Minh Trí
Tịnh giới
Quảng Nghiêm

Thường Chiếu

-1196
-1207
1122-1190
-1203

Thảo đường
Vô ngôn thông



8
1209 -1209
không có



9
1211 - 1224
Kiến Gia (1211–1224)
Thần Nghi
Tức Lự
Hiện Quang

1216

1221
Thảo đường
10
1214 - 1216
Càn Ninh (1214–1216)



11
1224 - 1226
Thiên Chương Hữu Đạo (1224–1226)




Các Thiền sư đời Lý
Các thiền sư đời Lý đều có sở đắc từ ba dòng Thiền có mặt tại Việt Nam thời bấy giờ: Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường (từ Trần Thánh Tông). Nếu tìm hiểu rõ tông chỉ, hướng tu tậpTâm của ba dòng Thiền trên, thì sẽ không khó nhận ra các sở đắc của các Thiền sư đời Lý.

 Dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi

Ty-ni-đa-lưu-chi sau khi đắc pháp với tam Tổ Tăng Xán, nghe theo lời dạy của tam Tổ đi về phương Nam để hành đạo: đã ở tại chùa Chế Chỉ (Quảng Châu) một thời gian và đã dịch Kinh Tượng Đầu (Văn hệ Bát Nhã) tại đây; sau đó qua Việt Nam thường trú ở chùa Pháp Vân (làng Cổ Châu, Long Biên) - có thể là chùa Dâu- 14 năm, cho đến ngày viên tịch. Tại Pháp Vân, Tỳ-ni-đa-lưu-chi đã truyền tâm pháp cho thiền sư Việt Nam (Pháp Hiền). Hẳn là Kinh Tượng Đầu được dạy cho các tăng sĩ Việt Nam ở Pháp Vân (bấy giờ có ngót 300 tăng sĩ tu học ở đây). Trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang đã rất hợp lý khi chọn hai đoạn kinh của Tượng Đầu, như là giáo lý ách yếu của bản kinh để giới thiệu, xem đấy là nội dung khai tâm và chứng đắc của các thiền sư, như sau:
-         " Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: bồ đề siêu việt tam giới, siêu việt ngôn ngữ, siêu việt văn tự, không cần địa điểm nương tựa.
" Lại nữa Văn Thù, an trú vào nơi không an trú tức là an trú bồ đề; an trú ở nơi không chấp trước tức là an trú bồ đề; an trú ở pháp không tức là an trú bồ đề; an trú nơi pháp tính tức là an trú nơi bồ đề; an trú nơi chân lý tất-cả-các-pháp-không-có-thể-tướng tức là an trú nơi bồ đề; an trú nơi không-tăng-không-giảm là an trú nơi bồ đề..."
" Lại nữa, kẻ trí giả phải lấy thiền làm thể; thiền trí phải bình đẳng, không có phân biệt bởi vì đó là phương tiện vậy. Phải quán ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới, mười hai nhân duyên, sự lưu chuyển của sinh tử về các hình tướng thiện, ác đều như huyễn hóa, không phải hữu, không phải vô." (VNPGSL,... tr.140-141)
- Kinh Tượng Đầu giới thiệu mười pháp thiền quán để đoạn trừ tâm chấp thủ tướng như sau:
b.1 : Quán nội thân (bên trong thân) là không.
b.2 : Quán bên ngoài thân là không.
b.3 : Quán các hiện hữu trong, ngoài thân đều không.
b.4 : Không chấp trước vào các trí (các hiểu biết, nhận thức).
b.5 : Không chấp vào các phương tiện tu.
b.6 : Không chấp vào các quả chứng của Hiền, Thánh.
b.7 : Không chấp vào tâm thanh tịnh do tu mà đạt được.*
b.8 : An trú vào tuệ toàn giác, tuệ vô ngã.
b.9 : Không chấp trước vào việc giảng dạy, giáo hóa.
b.10 : Quán chúng sanh để phát khởi tâm đại bi.
- Bồ Đề, đúng nghĩa là tuệ giác (từ chữ bodhi), hay tuệ giải thoát. Tuệ nầøy thấy rõ thực tướng của các pháp, thể nhập thực tướng, hẳn là đồng thể với thực tướng, vì thế Phật tánh chính là pháp tánh, là duyên sinh tánh. Đây là nội dung mà đức Thế Tôn đã dạy từ nguyên thủy, từ kinh tạng Nikàya rằng :"Ai thấy Pháp là thấy Duyên Khởi, ai thấy Duyên Khởi là thấy pháp", và "Ai thấy Pháp là thấy Phật, ai thấy Phật là thấy pháp". Sự thật đó thì ở ngoài thế giới của các ngã tướng, nên ở ngoài ngôn ngữ, văn tự diễn đạt.
- Ý nghĩa an trú bồ-đề (tuệ giác) là an trú vào nơi không an trú :
Kinh Tiểu Không (Trung bộ kinh III, Pali Nikàya) thì diễn đạt rằng an trú Không tánh (Sunyatà) là an trú vào bất cứ đối tượng nào trong Tứ thiền sắc định (xả và nhất tâm), ở đó hành giả thấy rõ sự thật: "Cái này có, nên cái kia có.": đây gọi là Phạm trú, Thánh trú, Phật trú. Nội dung của an trú nầy là an trú vào tuệ giác duyên sinh - vô ngã ở trạng thái tâm thức thuộc xả và nhất tâm, và thực sự là an trú vào nơi không an trú, và là an trú vào không chấp trước (xả).
Như thế, đoạn kinh trích dẫn ở trên (của Kinh Tượng Đầu) thực sự là nội dung của Kinh Tiểu Không (của Nikàya).
- Nếu ở Tứ thiền sắc định ấy, hành giả chú tâm vào Ngũ ấm, Lục nhập, Thập bát giới, Thập nhị nhân duyên thì hành giả sẽ thấy ở đấy cùng sự thật: "Cái này có nên cái kia có" :hành giả chỉ thấy sự thật duyên sinh - vô ngã, hay không tánh của các đối tượng an trú. Đây chính là nội dung của phần thứ hai thuộc đoạn thứ nhất (Kinh Thượng Đầu) vừa trích dẫn.
- Nếu an trú vào Tánh Không ấy, hay an trú bồ-đề, thì hành giả sẽ tự động thành tựu 9 pháp quán của Kinh Tượng Đầu. Chỉ có pháp quán chúng sanh để phát khởi tâm đại bi là thuộc phần quán Tứ vô lượng tâm (Từ,bi,hỉ,xả) như được giới thiệu ở Kinh số 7, Trung I (và vài kinh khác), Nikàya.
Vậy là Bản Kinh Tượng Đầu mở hướng sở đắc, khai tâm của dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở Việt Nam-ở thế kỷ thứ 6 cho đến triều Lý và sau đó- thì rất là truyền thống của Phật Giáo. Tại đây, ta có thể khẳng định thiền học Việt Nam dưới triều Lý là con đường giải thoát phản ánh trung thực với các yếu lý mà đức Phật đã dạy từ nguyên thủy. Bát nhã, hay Trung đạo luận, là con đường truyền thống ấy.

Dòng thiền Vô Ngôn Thông  

Năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông - đắc pháp với Bách Trượng Hoài Hải - từ Trung Hoa sang Việt Nam, ở tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (Bắc Ninh) lập ra dòng thiền Vô Ngôn Thông. Sư trú trì chùa Kiến Sơ là Lập Đức (về sau, sư Vô Ngôn Thông đổi tên Lập Đức sang Cảm Thành) được truyền tâm pháp làm tổ thứ hai của dòng thiền nầy.
Vô Ngôn Thông đạt ngộ từ lời dạy của tổ Bách Trượng rằng:
" Tâm địa nhược thông, tuệ nhật tự chiếu" (nghĩa là: Cái Tâm như đất - như đất có thể nuôi dưỡng vạn loài, bất động trước mọi thứ xúc tiếp với nó, cũng vậy, tâm có thể phát khởi vạn công, đức giải thoát và như như bất động trước vạn pháp - ấy nếu hành giả thông tỏ, thì Trí tuệ (như mặt trời rọi khắp chốn) sẽ chiếu khắp, bừng chiếu).Điều này có nghĩa là cái tâm thông tỏ thực tướng của vạn pháp chính là Tuệ giác giải thoát.
Sau khi đạt ngộ, Vô Ngôn Thông đã hành thiền, tịnh tu để tiếp tục nuôi dưỡng và phát triển cái tuệ tỉnh giác ấy. Trước lúc viên tịch, Vô Ngôn Thông đã truyền dạy Cảm Thành rằng:
" Cái diệu tâm gọi là Chánh Pháp Nhãn Tạng, là Thực tướng vô tướng, là pháp môn Tam muội"
Qua đó, Vô Ngôn Thông chỉ rõ công phu để thể nhập Thực tướng, Diệu tâm, để phát khởi Tuệ nhãn là công phu thực hành Thiền để vào sâu Định - thường thì an trú ở Đệ tứ Sắc định -. Tại đây, ở định nầy, hành giả trực nhận thực tướng Duyên sinh - Vô ngã của hiện hữu, còn gọi là trực nhận và an trú vào Không tánh của hiện hữu, tâm thức tự lià khỏi các kiết sử, lậu hoặc, đại Tuệ toả chiếu. Chính đại Tuệ nầy là Niết-bàn, Diệu tâm, là Chánh pháp nhãn tạng, là Thực tướng vô tướng. Công phu nầy phản ánh trung thực nội dung an trú Không tánh của kinh Tiểu Không (Cùlasunyatasuttani), Trung III, Nikàya. Sự kiện nầy nói rõ: con đường giải thoát của các dòng Thiền đều đổ về Đại tuệ giải thoát, đổ về Tâm giải thoát (đại định) và Tuệ giải thoát (đại Tuệ) của sự chứng nghiệm tâm thức ở ngoài ngôn ngữ, khái niệm. Nó được trao truyền cho những ai có thể thực hiện, mà không có nghĩa bí truyền, bí mật nào.

Dòng Thiền Thảo Đường 

Thảo Đường là một thiền sư Trung Hoa, thuộc dòng thiền Vân Môn (một trong năm nhánh thiền phát xuất từ Lục Tổ Huệ Năng). Sư qua truyền pháp ở Chiêm Thành nhằm lúc Lý Thánh Tông phạt Chiêm. Sư bị bắt và bị dẫn theo đoàn tù binh về Việt Nam. Lý Thánh Tông phát hiện sự uyên bác và đạo hạnh của sư, đã cảm mến, phong sư làm Quốc sư, mở ra dòng thiền Thảo Đường. Sử liệu liên hệ đến sư hiện có quá ít, khó có thể nhận ra đầy đủ sắc thái đặc thù của dòng thiền này, ngoài việc hình dung ra Bát nhã là yếu chỉ của phái Thảo Đường. Riêng thiền phái Vân Môn thì chuộng tính văn học bác học, thường gây ảnh hưởng trong giới trí thức thượng lưu, và chủ trương kết hợp Phật và Nho - chủ trương này đáp ứng tốt yêu cầu đại đoàn kết dân tộc của Việt Nam -
Tóm lại, ba dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường vừa đề cập đều nhằm phát triển trí tuệ, tâm giải thoát (sức mạnh của tâm lý) cùng lúc phát triển ở cá nhân và tập thể tinh thần tự chủ, tự tín, tự trách nhiệm, độc lập, tự tri và lòng nhân ái, từ bi (vô sân và vô sân tư duy). Khi cấp lãnh đạo xứ sở và lãnh đạo Giáo hội (quần chúng Phật tử) chịu ảnh hưởng sâu sắc các tinh thần trên thì sẽ chuyển hiện thành nhiều lợi ích cho hưng vượng, độc lập của xứ sở. Khi quần chúng hấp thu các thái độ sống ấy thì sẽ chuyển thành sức mạnh hùng cường của xứ sở, an lạc, thanh bình.

Thân thế sự nghiệp một số thiền sư tiêu biểu

Thiền sư Vạn Hạnh và sự hình thành nhà Lý
Vạn Hạnh (Hán tự: 萬行) (938 – 1025) là tên một vị thiền sư người Việt có nhiều đóng góp trong việc mở ra triều đạinhà Lý, một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là cố vấn của vua Lê Đại Hành, là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập. Ông cũng là một nhà tiên tri.
Thiền sư họ Nguyễn, quê châu Cổ Pháp (古法, nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), từ thuở nhỏ đã thông minh, học thông Nho, Lão, Phật và nghiên cứu hàng trăm bộ luận Phật giáo. Năm 21 tuổi ông xuất gia, tu học với bạn là thiền sư Ðịnh Tuệ dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ. Sau khi Thiền Ông mất, ông bắt đầu chuyên thực tập Tổng Trì Tam Ma Ðịa, nên sau này hễ ông nói lời gì đều được thiên hạ cho là phù sấm. Vua Lê Ðại Hành rất tôn kính ông. Năm 980, Hầu Nhân Bảo của nhà Tống mang quân sang đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm chiếm nước Đại Cồ Việt, vua triệu ông vào hỏi nếu đánh thì thắng hay bại. Ông đáp trong vòng từ ba đến bảy ngày giặc sẽ rút lui. Lời này sau ứng nghiệm. Khi vua Lê Ðại Hành muốn can thiệp vào Chiêm Thành để cứu sứ giả bịChiêm Thành bắt giữ nhưng còn do dự, thì Vạn Hạnh nói đây là cơ hội đừng để mất. Sau đó lời này nghiệm, và trận ấy quân Lê thành công.[1]
Đại Hành là Lê Long Việt lên ngôi mới được ba ngày thì bị anh là Lê Long Đĩnh giết chết. Thiền sư Vạn Hạnh thấy bất nhẫn nên đã ôm xác Long Việt mà khóc. Ông đã nhìn thấy nguy cơ của triều đình nhà Tiền Lê nên bắt đầu nghĩ tới việc đưa Lý Công Uẩn lên nắm chính quyền.
Trong lịch sử nước ta, việc thay đổi một triều đại thường diễn ra nội bộ triều đình giữa họ này vói họ kia, khởi đầu bởi cái cũ quá xấu bị cái mới tiến bộ hơn phủ định, thường do một lực lượng làm trung gian tạo thế đòn bẩy, hoặc do phe này kình chống phái kia để tranh quyền đoạt lợi và mưu toan tranh bá đồ vương. Triều Ngô, Đinh, Lê đang là bài học kinh nghiệm nóng hổi tạo tiền đề cho Lý thay Lê không khó do một lực lượng trung gian có uy tín, đã xét thấy cần thay cũ đổi mới. Đó là thế lực của các nhà sư đang ở thế thượng phong, được các vua tiên đế trọng dụng mà thiền sư Vạn Hạnh là đại biểu. Nhưng có nhiều lý do khiến cho thiền sư triều Lý tham dự vào chính sự. Theo lý giải của Nguyễn Lang, tác giả "Việt Nam Phật giáo sử luận" (Sđd) thì các nhà sư tham gia chính sự mà không tham dự chính quyền bởi vì họ không nhận chức vụ quyền lực trong nội các, khi cần chỉ tới giúp ý kiến rồi về chùa. Lý do thứ nhất, họ là những người có học - trí thức, có ý thức về quốc gia, dân tộc, sống gần gũi với quần chúng và biết được những khổ đau của người dân đang bị cai trị bằng chính sách hà khắc bóc lột. Lý do thứ hai, họ không có ý tranh giành ngôi báu, không cần quyền bính và địa vị ngoài đời nên được mọi người tin họ. Lý do thứ ba, họ không khuôn sáo thực hiện "trung quân" một chiều để cứng nhắc "bất cộng nhị quân", họ biết sáng suốt thờ vua nào và từ chối ủng hộ vua nào để đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Lý do thứ tư, nhà vua cần tới tri thức của họ về nhiều mặt để trị quốc bình thiên hạ.
Những điều trên đã cho thấy họ hơn hẳn các nhà Nho. Nhân tài, hiền tài thuộc về tầng lớp trí thức có được là nhờ vào nền giáo dục quốc gia huống chi ở nước ta thời ấy chưa có nền giáo dục đúng nghĩa như dưới triều nhà Lý, nhà Trần mà chỉ dựa vào các đạo Khổng, đạo Lão và đạo Phật, trong đó đạo Khổng thì chỉ thịnh vào triều đại phong kiến sau này.
Cho nên qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê và dưới thời Bắc thuộc về trước dân trí được mở mang chỉ dựa vào các đạo mà đạo Phật lại hưng thịnh vào triều Lý, còn thời trước đó, các đạo đều chưa giúp cho nền giáo dục của đất nước đào tạo người tài đức. Do đó, các tu sĩ Phật giáo được xã hội trọng vọng, trong đó có các vua thuộc các triều đại trước. Huống hồ, lớp tăng sĩ Phật giáo lại nổi trội trong triều đình về mặt tri thức và đạo đức, lễ nghĩa và chính vì thế mà lực lượng nòng cốt cho sự thay vua đổi triều là các thiền sư. Ở đây, còn có yếu tố Lý Công Uẩn là con nuôi của nhà sư Lý Khánh Vân (hay Lý Tự Khanh) ở chùa Cổ Pháp, người vừa có học lại vừa có thân thế và quyền lực trong triều lúc bấy giờ. Đó còn là lý do khiến cho thiền sư Vạn Hạnh và các nhà sư thuộc cánh Phật giáo thời ấy ủng hộ cho sự thay đổi triều đại.
Mối quan hệ giữa thiền sư Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn là quan hệ tình thầy trò. Thiền sư Vạn Hạnh họ Nguyễn, không rõ tên, người làng Cổ Pháp, 21 tuổi xuất gia, thọ giới nơi Lục Tổ Thiền Ông rồi tu ở chùa Lục Tổ, làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, viên tịch năm 1018 (có tài liệu nói ông mất năm Thuận Thiên thứ 16 tức năm 1025) nhưng không rõ là thọ bao nhiêu tuổi (có tài liệu nói ông thọ 80 tuổi). Được biết ông thu nhận Lý Công Uẩn làm học trò vào năm Canh tuất 1010 lúc ông được 37 tuổi. Từ năm 982, ông được vua Lê Đại Hành trọng dụng để tham vấn về những việc lớn của đất nước như chống quân Tống, đánh Chiêm Thành (Champa). Ông tinh thông Tam giáo được nhân dân gọi theo pháp danh là Sư Vạn Hạnh. Sau khi lên ngôi vua Lý Thái Tổ trọng đãi phong ông là Quốc sư. Thiền sư Vạn Hạnh thọ giáo Phật pháp của phái Thiền tông dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tu và đắc đạo tại chùa Tiêu. Là người thông minh đĩnh ngộ, ông không chỉ tu luyện theo giáo lý nhà Phật mà còn nghiên cứu sâu rộng am hiểu thời thế, có kiến thức về khoa học xã hội, khoa quản trị nhà nước của đạo Khổng. Hàng ngày ông dạy dỗ Lý Công Uẩn và nhận ra học trò của mình có thiên tư thông minh nên hết lòng rèn luyện nên người tài đức. Kịp lúc Lê Long Đĩnh sát hại em rồi qua đời, ông liền ủng hộ và vận động triều đình suy tôn Lý Công Uẩn lên ngôi. Lúc đó, trong nhân dân lưu truyền bài sấm mà người ta cho là của thiền sư Vạn Hạnh làm ra để cho thấy họ Lý lên thay họ Lê là hợp lòng trời:

"Cội Lê trầm Bắc thủy 
Lý tử thụ Nam thiên 
Tứ phương can qua tĩnh 
Bát biếu hạ bình an".

Được dịch nghĩa:

Gốc Lê chìm biển Bắc 
Chồi Lý mọc trời Nam 
Bốn phương tan giáo mác 
Tám cõi được bình an.

Đúng như lời thơ, năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua lấy niên hiệu Thuận Thiên (Tuân theo ý trời hay Hợp lòng trời). Thấm nhuần Phật học, trông rộng nhìn xa và khắc sâu lời giảng dạy của Quốc sư Vạn Hạnh, vua Lý Thái Tổ quyết định dời kinh đô Hoa Lư ra thành Đại La đang nằm ở vị trí có ưu thế hợp với thuyết phong thủy và có nhiều vượng khí về sau ngày càng phát triển xứng đáng với tầm vóc của một kinh đô Đại Việt. Trước đó, vua đã tự thảo ra tờ Chiếu để hỏi ý kiến quần thần và Quốc Sư. Được sự đồng tâm nhất trí của cả triều đình và của cả nhân dân trăm họ, chỉ một năm sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư vào mùa thu năm Canh Tuất (1010). Khi ra đến La Thành, vua cho là đã nhìn thấy rồng vàng hiện ra nên đổi tên thành Đại La ra thành Thăng Long (nay là thủ đô Hà Nội) mở đầu kỷ nguyên mới cho nước Đại Việt. Nội dung bài "Chiếu dời đô" được dịch ra tiếng Việt như sau:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh,Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầuhổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
Chắc chắn việc dời đô và tờ Chiếu đều có tham mưu của Quốc Sư Vạn Hạnh. Như thế, chúng ta có thể nói rằng nếu không có Thiền sư Vạn Hạnh thì không có Lý Công Uẩn và triều đại nhà Lý, nhất là chắc gì lại có thành Thăng Long. Đó là chưa kể việc Lý Công Uẩn từ chùa Cổ Pháp (Bắc Ninh) được thầy của mình đưa vào kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) để phụ trách công tác bảo vệ vua và triều đình nhà Tiền Lê. Ông thật sự là nhà kiến trúc tạo tác nên bước đầu đời nhà Lý và ban sơ cho Lý Công Uẩn trong cuộc sống và sự nghiệp vinh quang của dòng họ Lý và khai sáng nên kinh đô Thăng Long vào đầu thế kỷ 11 mà ngày nay trở thành thủ đô hòa bình của nước CHXHCN Việt Nam, tự hào đường h oà ng sánh vai cùng thế giới trong thời kỳ hội nhập của đầu thế kỷ 21. Để ghi nhớ công đức của Quốc sư Vạn Hạnh, nhân dân Bắc Ninh và các tín đổ Phật tử đã tạc tượng ông bằng đá đặt trên đỉnh núi cao. Vầng trán cao, sống mũi thẳng, vành môi nghiêm nghị cho thấy cả khối tượng Thiến sư Vạn Hạnh toát lên phong thái khoan thai, từ tốn mà uy nghi, trí tuệ, ái quốc và đầy tâm đạo.
Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, nhà sư còn khuyên răn với lời lẽ cảm động: " Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là sự may mắn muôn năm mới gặp một lần". Ngày rằm tháng năm, năm Thuận Thiên thứ 16 (1025) khi công hạnh đã viên mãn, thiền sư gọi môn đồ, Phật tử đang có mặt ở chùa tới để nghe bài kệ của ông rồi tịch. Sau lễ hỏa táng trang trọng, cả triều đình và đông đảo Phật tử, đồng bào xa gần đều dự lễ thỉnh xá lợi của ngài về thờ tại chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh). Gần trăm năm sau, cảm mộ đức hạnh của Quốc sư, vua Lý Nhân Tông (1072-1127) có bài kệ truy tán như sau:

Vạn Hạnh dong tam tế.
Chân phù cổ sấm ky.
Hương quan danh Cổ Pháp.
Trụ tích trấn Vương kỳ .

Dịch nghĩa:

Vạn Hạnh thông ba cõi. 
Thật hợp lời sấm xưa.
Quê hương tên Cổ Pháp.
Chống gậy trấn kinh vua.



Trước năm 1975, ở miền nam Việt Nam có một viện đại học mang tên ông là Viện Đại học Vạn Hạnh. Hiện nay, nhiều thành phố ở Việt Nam có tên đường "Sư Vạn Hạnh" để tưởng nhớ một vị thiền sư đã ghi lại nhiều dấu ấn trong lịch sử dân tộc.
Đại Việt Sử ký toàn thư có ghi lại bài Sấm – Vĩ của Vạn Hạnh:
Thọ căn diễu diễu
Mộc biểu thanh thanh
Hoa đào mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sanh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Dịch là:
Gốc cây thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Cây hoa đào rụng
Mười tám hạt thành
Cành đông xuống đất
Cành khác lại sanh
Đông mặt trời mọc
Tây sao ẩn hình
Sáu bảy năm nữa
Thiên hạ thái bình


Vai Trò của thiền sư Từ Đạo Hạnh (? – 1117)
Chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích(1)
Thiền sư họ Từ, húy Lộ. Cha là Từ Vinh, làm quan đến chức Tăng quan đô án. Nguyên là Từ Vinh trọ học ở hương yên Lãng (2), lấy vợ là con gái nhà họ Tăng rồi cư trú ở đó. Ông là con bà họ Tăng đó. Bản tính ông từ nhỏ hào hiệp phóng khoáng, có chí lớn, phàm việc làm lời nói không ai đoán trước được. Ông kết bạn thân với nho sĩ Phi sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người kép hát là Vi Ất. Ban đêm ông miệt mài đọc sách, ban ngày thổi sáo, đá cầu, đánh bạc vui chơi, thường bị cha trách mắng là lười nhác. Một đêm Từ Vinh lén vào phòng thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống bên cạnh, còn Từ Lộ thì đang tựa án mà ngủ, tay vẫn cầm quyển sách, tàn đèn rơi đầy cả mặt bàn. Từ đó cha ông mới không phải lo nghĩ gì nữa. Sau triều đình mở khoa thi tăng quan, ông dự thi, được trúng tuyển.
 Nguyên trước kia thân phụ ông là Từ Vinh có điều xích mích bị Diên Thành hầu(1) cho là dùng tà thuật xúc phạm đến mình, vì vậy Diên Thành hầu nhờ sư Đại Điên dùng pháp thuật đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch. Thây Từ Vinh trôi đến cầu Quyết thì bật dậy, chỉ tay vào nhà Diên Thành hầu suốt một ngày. DiênThành hầu sợ hãi sai người đi báo với Đại Điên. Đại Điên đến nơi quát: “Kẻ tu hành giận không quá đêm!”. Thây Từ Vinh nghe vậy lại tiếp trôi đi. Ông muốn báo thù cha nhưng không biết làm cách nào. Một hôm nmhân lúc Đại Điên ra ngoài, sư bèn xông vào đánh. Bỗng nghe trên không có tiếng quát: “Dừng lại! Dừng lại!”. Ông sợ, vứt gậy mà chạy. Từ đó ông quyết chỉ đánh đường sang Ấn Độ cầu học phép lạ để về báo thù cho cha. Đến nước Kim Xỉ(2) gặp đường đi hiểm trở nên phải quay về. Từ đó ông vào ẩn cư trong hang đá núi Phật Tích, ngày ngày chuyên chú trì tụng Đại bi tâm Đà La Ni,(3) đủ mười vạn tám nghìn lần. Một hôm sư thấy thần nhân đến bảo: “Đệ tử là Tứ Trần thiên vương, cầm công đức của sư trì tụng kinh Đại Bi nên xin đến hầu để sư sai phái”. Sư biết là đạo pháp viên thành, đã có thể báo thù cha. Sư bèn đến bên cầu Quyết, thử ném gậy xuống giữa dòng nước xiết. Chiếc gậy liền trôi ngược dòng đến phía tây cầu Tây Dương(4) thì dừng lại. Sư mừng nói: “Phép ta thắng rồi”. Sư bèn đi thẳng đến nhà Đại Điên. Đại Điên trông thấy nói:
- Ngươi không nhớ chuyện ngày trước sao?
Sư ngước nhìn lên trời, không thấy động tĩnh gì, bèn vung gậy đánh. Đại Điên phát bệnh mà chết. Từ đó rửa sạch oán thù, việc đời như tro lạnh, sư bèn đi khắp nơi trong chốn tùng lâm để tìm thấy ân chứng. Nghe nói Kiều Trí Huyền hóa đạo ở Thái Bình, sư tìm đến tham vấn. Sư đọc bài kệ để hỏi về chân tâm:
Cửu hỗn phàm trần vị thức câm (kim)
Bất tri hà xứ thị chân tâm
Nguyện thùy chỉ đích khai phong tiệm
Liễu kiến như như đoạn khổ tâm.
Dịch:
Lẫn với bụi đời tự bấy lâu
Chân tâm vàng ngọc biết tìm đâu?
Cúi xin rộng mở bày phương tiện
Thầy được Chân Như sạch Khổ sầu
NGUYỄN LANG
(Việt Nam Phật giáo sử luận)
Trí Huyền đọc kệ đáp:
Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm
Cá trung mãn mục lộ thiên tâm
Hà sa cảnh thị Bồ Đề đạo
Nghĩ hưởng Bồ Đề cách vạn tầm.
Dịch:
Mình ngọc vang đưa tiếng áo huyền
Ở trong vẫn lộ, tấm lòng thiền
Cát sông là cõi Bồ Đề đó
Mà tưởng còn xa mấy dặm nghìn
NGÔ TẤT TỐ (VHĐL)
Sư vấn lờ mờ không rõ bèn tìm đến chùa Pháp Vân thỉnh giáo thiền sư Sùng Phạm. Sư hỏi:
- Thế nào là chân tâm?
Sùng Phạm hỏi lại:
- Thế cái gì không phải là chân tâm?
Sư rạng rỡ, tỉnh ngộ, hỏi lại rằng
- Lấy gì làm bảo chứng?
Sùng Phạm đáp:
- Đói ăn khát uống.
Sư lạy tạ rồi cáo từ trở về. Từ đó pháp lực như được tăng thêm, duyên thiền càng thêm thuần thục, có thể khiến rắn rết, muông thú đến chầu phục, đốt ngón tay cầu mưa, phun nước phép chữa bệnh, không việc gì không ứng nghiệm. Có vị tăng hỏi:
- Đi đứng nằm ngồi đều là phật tâm. Vậy thế nào là Phật tâm?
Sư đọc kệ đáp:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
Dịch:
Có thì muôn sự có
Không thì tất cả không
Có, khong trăng đáy nước
Đừng vướng có không không
THANH TỪ
(TSVN)
Sư lại nói:
- Nhật nguyệt tại nham đầu
Nhân nhân tận thất châu
Phú nhân hữu câu tử
Bộ hành bất kỵ câu.
Dịch:
Nhật nguyệt tại non đầu
Người người mất ngọc châu
Kẻ giầu có ngựa tốt
Chẳng chịu dùng ngựa đâu
Bấy giờ vua Lý Nhân Tông tuổi đã cao mà không có con nối dõi. Tháng 2 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112) ở phủ Thanh Hóa có người tâu: “Vùng bờ biển Sa Đinh có một đứa trẻ con linh dị, mới lên ba tuổi mà nói năng biện giải như người lớn, xưng là con đích của vua, tự đặt hiệu là Giác Hoàng. Phạm mọi việc làm của hoàng thượng, không điều gì đứa bé ấy không biết”. Vua sai trung sứ vào tận nơi xem xét, thấy đúng như lời tâu, bèn cho đón về chùa Báo Thiên ở kinh đô. Thấy đứa trẻ thông minh dị thường vua có lòng yêu mến, định lập làm hoàng thái tử. Các quan hết sức can ngăn vua không nên làm như vậy. Các quan lại nói nếu đứa bé ấy quả thực linh dị, tất nên thác sinh vào nội cung rồi sau mới lập làm thái tử được. Vua nghe theo, bèn cho mở hội lớn bẩy ngày đêm để làm  phép thác thai. Sư nghe chuyện, tự nghĩ: “Đứa bé này dùng phép yêu dị để mê hoặc mọi người, ta nỡ nào ngồi nhìn để nó lừa dối, làm loạn chính pháp?”. Sư bèn nhờ người chị gái giả làm người đi xem hội, lén đem chuỗi hạt do sư đã kết ấn, treo lên rèm cửa. Hội đến ngày thứ ba, thì Giác Hoàng bỗng kêu đau, bảo mọi người: “Ta đã đi khắp quanh hoàng thành, như ở đâu cũng có lưới sắt vây kín. Muốn thác sinh cũng không biết lọt vào bằng cách nào”. Vua ngỡ sư làm bùa chú để phá, bèn sai quan xét hỏi thì sư thú nhận. Quan quân bèn bắt sư trói, đem đến lầu Hưng Thánh để triều thần định tội. Lúc ấy gặp Sùng Hiền hầu đi qua, sư thống thiết giãi bày với hầu về chuyện đó. Sư nói:
- Quỹ hầu gắng giúp cho bần tăng thoát tội. Ngày sau xin đầu thai để đáp ơn tạ đức.
Sùng Hiền hầu nhận lời. Khi vào triều nghị, các quan đều nói:
- Bệ hạ không có nối dõi nên phải cầu Giác Hoàng thác sinh làm con, vậy mà Từ Lộ dùng bùa phép cản trở, xin bệ hạ cho xử chém để thiên hạ hả lòng.
Sùng Hiền hầu từ tốn tâu rằng:
- Giác Hoàng nếu quả có thần lực thì dẫu cả trăm Từ Lộ làm bùa chú cũng không làm hại được. Đằng này Giác Hoàng lại bị lướt mắt chắn không vào được, thế thì Từ Lộ cao tay pháp hơn Giác Hoàng. Theo ngu ý của thần, bệ  hạ nên tha tội cho Từ Lộ và cho Từ Lộ được thác sinh.
Vua thuận theo lời tâu của Sùng Hiền hầu. Sư bèn đi ngay đến phủ đệ của Sùng Hiền hầu, vào thẳng nơi phu nhân đang tắm mà nhìn. Phu nhân tức giận nói lại với chồng. Nhưng Sùng Hiền hầu đã biết trước nên không căn vặn gì.
Từ đó phu nhân cảm thấy mình có thai. Sư dặn Sùng Hiền hầu: “Khi nào phu nhân sắp sinh thì báo cho bần tăng biết trước”. Đến lúc phu nhân sắp sinh, Sùng Hiền hầu cho người đến báo. Sư bèn tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ rồi bảo đệ tử:
- Nghiệp duyên của ta chưa hết, còn phải thác sinh để tạm giữ ngôi vua. Ngày sau thọ chung sẽ được làm thiên tử ở cõi trời thứ ba mươi ba. Nếu thấy chân thân của ta hư nát thì lúc ấy ta mới thật nhập Niết Bàn, không còn phải trụ trong vòng sinh diệt nữa. Các đệ tử nghe nói không cầm được nước mắt. Sư bèn đọc bài kệ rằng:
Thu lai bất báo nhạn lai quy
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi
Vị báo môn nhân hưu luyến trước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.
Dịch:
Thu về chẳng báo nhạn theo bay
Cười nhạt người đời uổng xót vay
Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến
Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Nói xong sư trang nghiêm mà hóa, đến nay hình xác vẫn còn.
Nguyên chú: Xét quốc sử(1) năm Hội Tường Đại Khánh thư 8 (1117) lấy con trai của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng chọn đưa vào trong cung để nuôi dưỡng. Bấy giờ con của Sùng Hiền hầu mới lên 2 tuổi, vua rất yêu, bèn lập làm hoàng thái tử. Đến năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ nhất (1127) mùa đông tháng 12, vua băng. Hoàng thái tử lên ngôi hoàng đế, năm ấy 21 tuổi. Vua ở ngôi 11 năm, thụy hiệu là Thần Tông Tương truyền Thần Tông là hậu thân của sư, còn Giác Hoàng là sư Đại Điên.
Vai trò của Quốc sư Thông Biện (? – 1134)
 Quốc sư người hương Đan Phương, họ Ngô, vốn dòng dõi Phật tử, bản tính thông tuệ, học thông tam giáo
Lúc đầu sư tham vấn thiền học, đắc pháp với thiền sư Viên Chiếu(1) ở chùa Cát Tường. Sau đó có chiếu chỉ triệu về kinh đô Thăng Long trụ trì chùa Khai Quốc, sư tự xưng hiệu là Trí Không Mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1096), ngày rằm tháng hai, Phù Thánh Cảm Lính Nhân hoàng thái hậu(2) đến chùa thiết lễ trai tăng. Trong lúc đàm đạo với các bậc túc tăng kỳ lão, thái hậu hỏi:
- Phật và Tổ nghĩa thế nào? Ai hơn ai kém? Phật trụ phương não? Tổ ở thành nào? Đến nước ta từ bao giờ? Việc truyền đạo ai trước ai sau? Mà người niệm tên Phật đạt tâm ấn của Tổ chưa rõ là những ai?
Bấy giờ mọi người đều im lặng cả, sư thừa rằng:
- Thường trụ ở thế gian, không sinh không diệt thì gọi là Phật. Hiểu rõ tâm tông của Phật, giảng và làm đi đôi với nhau, gọi là Tổ. Chỉ vì những kẻ kém học nói bậy là có bên hơn bên kém mà thôi. Và lại Phật có nghĩa là “Giác” (hiểu biết) vốn lặng lẽ, thường trụ, tất cả chúng sinh đều có cùng lẽ ấy. Chỉ vì tình trần che lấp, trôi nổi theo nghiệp báo mà phân ly ra các cõi Phật vì lòng từ bi mà thị sinh ở đất Thiên Trúc, là vì xứ sở ấy ở vào khoảng chính giữa của trời đất. Phật mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo. Ở đời thuyết pháp bốn mươi chín năm, mở ra, các pháp môn để giác ngộ cho người đời. Đấy là thời đại hưng giáo vậy. Khi sắp nhập Niết Bàn, lại sợ người ta hiểu làm ý mình, Phật bèn bảo Văn Thù(1): “Ta bốn mươi chín năm chưa từng nói một lời, sao lại bảo là ta có thuyết giáo ư?” Nhân đó Phật cầm cành hoa giơ lên. Mọi người đều chưa hêỉu Phật nói ý gì. Chỉ một mình Ca Diếp tôn già mỉm cười. Phật Biết Ca Diếp đã lĩnh ngộ, bèn đem chánh pháp nhãn tạng(2) truyền cho. Đó là Tổ thứ nhất của dòng Tầm tông, được trao truyền bên ngoài giáo điển(1)
Sau đó ma Đằng(2) đem pháp ấy vào đất Hán. Rồi Đạt Ma đem tống chỉ sang các nước Lương, Ngụy. Việc truyền pháp đến Thiên Thai trì giả(3) là thịnh, gọi là Giáo tông. Về tôn chí của Đạt Ma thì đến Tào Khuê Huệ Năng là sáng tỏ, gọi là Thiền Tông. Hai tông này truyền vào nước Việt ta đã lâu năm. Về Giáo tông thì có Mâu Bác(4), Khương Tăng Hội(5). Thiền tông thì có phái Tì Ni Đa Lưu Chi(1) vào trước, phái Vô Ngôn Thông vào sau. Đó là tổ của hai phái.
Thái hậu hỏi:
- Về Giáo tông thì chưa nói tới, nhưng còn hai phái Thiền tông thì có gì chứng thực không?
Sư đáp:
- Xét truyện Đàm Thiên pháp sư thầy chép rằng: vua Tùy Cao Tổ (581-604) gọi sư là pháp khí và bảo: “Trẫm nghĩ đến đạo từ bi của Điều Ngự(2) mà không biết làm sao để báo đáp ân đức. Trộm ở ngôi vua, trẫm đã hỗ trợ Tam bảo(3) khắp nơi: trong nước thì thu xá lị xây 49 bảo tháp; ngoài nước thì dựng 150 chùa tháp để tiêu biểu cho đời. Ở các xứ ngoài như Giao Châu cũng đã nhiều lần cho dựng chùa để ơn phúc nhuần thấm khắp cõi đại thiên. Nhưng xứ ấy tuy vội thuộc mà ràng buộc còn lỏng lẻo. Vậy pháp sư nên chọn những vị sa môn có danh đức đưa sang đó để giáo hóa, khiến cho tất cả đều được đạo Bồ Đề”. Pháp sư Đàm Thiên tâu: “Xứ Giao Châu có đường không với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đến Giang Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu(4) đã có tới hai mươi ngôi bảo tháp, độ được hơn năm trăm vị tăng và dịch được mười lăm quyển kinh rồi”. Như vậy là Phật giáo đã truyền đến Giao Châu trước nước ta. Hồi ấy đã có các vị tăng như Ma Ha Kỳ Vực(1), Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương(2) Mâu Bác v.v... cư trú tại đó. Nay lại có Pháp Hiền thượng sỉ đắc pháp(3) với Tỉ Ni Đa Lưu Chi truyền bá tông phái của Tổ thứ ba Tăng Xán. Pháp Hiền là vị Bồ Tát sống, hiện trụ trì ở chùa Chúng Thiện, giáo hóa không dưới ba trăm môn đồ, không thua kém gì ở Trung Quốc. Bệ hạ là bậc cha hiền của khắp thiên hạ, muốn bố thí bình đẳng nên định đưa như tăng sang giáo hóa. Nhưng họ đã có người rồi, ta không phải cho người sang nữa. Lại có chứng cứ nữa: tướng quốc đời Đường là Quyền Đức Dư viết trong lời tựa sách Truyền pháp rằng: “Lại sau khi Tào Khê (Huệ Năng) mất, thiền pháp thịnh hành, các dòng đều có kẻ nối, thiền sư Chương Kính Huy đem những điều tâm pháp quan yếu của Mã Tổ đi thi hành giáo hóa ở miền Ngô, Việt. Vô Ngôn Thông đai sĩ đem tông chỉ của Bách Trượng Hoài Hải đi khai ngộ ở Giao Châu”. Đó là chứng cứ vậy.
Thái hậu lại hỏi:
- Sự truyền thừa của hai tông phái ấy thứ tự thế nào?
Sư đáp:
- Phái Ti Ni Đa Lưu Chi thì nay có Lâm Huệ Sinh, Vương Chân Không, Phái Vô Ngôn Thông thì có Mai Viên Chiếu, Nhan Quảng Trí. Dòng của Khương Tăng Hội thì nay có Lôi Hà Trạch. Ngoài ra những phái phụ thì nhiều không kể xiết.
Thái hậu cả mừng, phong sư làm Tăng thống, ban áo cà sa màu tía, ban hiệu là Thông Biện đại sư, hậu thưởng để tỏ rõ inh sủng. Sau Thái hậu lại thỉnh sư vào đại nội, phong làm quốc sư để tham vấn, nhờ đó hiểu sâu tôn chỉ của Thiền ông. Thái hậu có làm kệ Ngô Đạo như sau:
Sắc thị không, không tức sắc
Không thị sắc, sắc tức không
Sắc, không câu bất quản
Phương đắc khế chân tông.
Dịch:
Sắc mà không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không
Sắc, không đều chẳng quản
Mời Khế hợp chân tông
HOA BẰNG
(TVLT 1)

Về già, sư trụ trì ở chùa Phổ Ninh, mở đàn thuyết pháp. Phàm việc dạy người, sửa mình sư thường dẫn dụng đến kinh Pháp Hoa, vì vậy người đương thời gọi sư là Ngô Pháp Hoa(1)
Ngày mười hai tháng hai năm Giáp Dần niên hiệu Thiên Chương Báo Tự thứ 2 (1134) sư lâm bệnh rồi qua đời(2).


Vai Trò của thiền sư Nguyễn Minh Không (Lý Quốc Sư)
Lý Quốc Sư (chữ Hán: 李國師; 15 tháng 10 năm 1065 – 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho ghép với chức danh pháp lý cao nhất của một vị thiền sư từng được gọi là dược sư, pháp sư, đại sư rồi quốc sư tên hiệu Nguyễn Minh Không (chữ Hán: 阮明空). Ông là một vị cao tăng đứng đầu tổ chức phật giáo của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Vì có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân mà ông cùng với Trần Hưng Đạo, là những nhân vật lịch sử có thật, sau này được người Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn, đức thánh Trần. Trong dân gian, Nguyễn Minh Không còn được coi là một vị thánh trong tứ bất tử  Việt Nam và ông tổ nghề đúc đồng. Ông được xem là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất ở Việt Nam.[1]
Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không tên húy là Nguyễn Chí Thành (阮志誠) sinh tại xã Đàm Xá, phủ Tràng An (nay là làng Điền Xá, xã Gia Thắng, Gia Viễn, Ninh Bình). Theo một số tài liệu, ông còn có đạo hiệu Không Lộ, từng tu ở chùa Không Lộ (Nam Định) và được thờ ở núi Không Lộ (chùa Thầy ngày nay)
Cha của thánh Nguyễn là ông Nguyễn Sùng, quê ở thôn Điềm Xá, phủ Tràng An.
Mẹ ông là bà Dương Thị Mỹ, quê ở Phả Lại, phủ Từ Sơn nay làng Phả Lại, xã Đức Long, Quế Võ, Bắc Ninh (nơi giáp với phường Phả Lại, thị xã Chí Linh, Hải Dương).
Vợ chồng ông Nguyễn Sùng tuy nghèo nhưng luôn chăm lo làm việc thiện. Hai ông bà sinh hạ được một người con trai khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là Nguyễn Chí Thành.[2]
Cha mẹ mất sớm, Chí Thành làm ngư dân đánh bắt cá, sinh sống trên sông Hoàng Long.[3] Chí Thành nuôi chí lớn, đi chu du thiên hạ, lúc thì đăng sơn kích thỏ, khi thì phóng thuỷ cầu ngư.[4]
Nguyễn Minh Không là một nhà sư tài danh lẫy lừng. Ông đã được coi là thần y khi chữa bệnh "hóa hổ" cho vua Lý Thần Tông và được ban quốc tính họ Lý, phong làm Quốc sư, được nhà vua cấp cho nhà ở, được miễn thuế má. Khi ông mất rồi được rất nhiều đền chùa thờ phụng. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: "Quốc sư Minh Không rất linh ứng. Phàm khi có tai ương hạn lụt, cầu đảo đều nghiệm cả." Nguyễn Minh Không là hiện thân quyền lực linh thiêng của Phật giáo hưng thịnh thời Lý - là thầy thuốc tài ba bậc nhất, là ngư dân gắn bó với thôn dã Đại Việt, là thiền sư tài cao đức trọng, là bậc thánh tổ nghề đúc đồng Việt Nam.

Lập chùa, mở mang phật giáo

Nguyễn Chí Thành lớn lên sang Tây Trúc học đạo và kết nghĩa anh em với Từ Đạo Hạnh  Nguyễn Giác Hải là hai vị chân sư có uy tín đương thời. Khi tu hành đắc đạo, Nguyễn Chí Thành trở về quê nhà dựng chùa Viên Quang, sau đó lại lập nhiều chùa ở vùng châu thổ sông Hồng... để tu hành, lấy vị hiệu là Không Lộ rồi Minh Không. Trong suốt cuộc đời, trên cương vị quốc sư thống lĩnh lực lượng phật giáo quốc gia, Nguyễn Minh Không đã dựng tới 500 ngôi chùa trên đất Đại Việt.[5]Nhiều ngôi chùa lớn còn tồn tại đến ngày nay như: chùa Bái Đính, chùa Cổ Lễ, chùa Non Nước, chùa Địch Lộng, chùa Quỳnh Lâm, chùa Am Tiên, chùa Trông, chùa Kim Liên,... Quốc sư Minh Không là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất ở Việt Nam.[6]

Pháp sư tài danh

Thiền sư Minh Không đồng thời là một dược sư nổi tiếng thời Lý, một trong những kỳ tích của ông được sử sách ghi lại là chữa thành công bệnh cho vua Lý Thần Tông, được phong làm quốc sư.
Tương truyền lúc còn đang học đạo, trong khi dạo chơi ở khu rừng, Từ Đạo Hạnh giả tiếng hổ dọa, Người nói: "Nếu ngươi muốn vậy, sau này chắc sẽ phải chịu quả báo như thế." Từ Đạo Hạnh hối hận: "Xưa kia đức Thế Tôn tạo quả viên thành còn chịu báo kim sương, mã mạch, huống chi tôi sinh thời mạt pháp đâu có thể tránh được, đời sau sẽ làm quốc chủ và sẽ chịu báo này, ông với tôi có nhân duyên bằng hữu lúc đó hãy cứu tôi." Sau khi thiền sư Đạo Hạnh hóa, đầu thai là Dương Hoán, được Vua Nhân Tông yêu quý lập làm Hoàng Thái tử và kế vị ngai vàng tức Lý Thần Tông hoàng đế. Lên ngôi không được bao lâu, tháng 3 năm 1136 Vua Lý Thần Tông bệnh nặng, lông lá mọc khắp cơ thể, gầm thét như hổ suốt ngày, các danh y tài giỏi được triệu đến chữa bệnh nhưng không thuyên giảm. Tức thì trong dân gian, xuất hiện bài đồng dao của trẻ con rằng:
"Bắc nam có tây đông
Đáy bể ẩn có rồng
Vua mắc bệnh khó chữa
Hãy đón Nguyễn Minh Không.".
Vua bèn sai sứ tìm gặp Sư. Khi Sư đến, Tôn túc thạc đức các phương đang ở trên điện làm phép, thấy Sư ăn mặc quê mùa, họ khinh khí không đáp lễ. Sư đến, đem theo một cái đinh lớn, dài hơn 5 tấc, đóng vào cột, lên tiếng nói: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì trước đáng được tôn trọng". Nói thế ba lần, chẳng ai dám làm. Sư lại lấy hai ngón tay trái, cầm vào thì đinh theo chúng mà ra. Mọi người đều khiếp phục. Khi gặp vua, Sư lớn tiếng nói: "Ðấng đại trượng phu, giàu sang bốn bể, há lại làm ra những điều cuồng loạn đấy ư?" Vua rất run sợ, Sư sai lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần, dùng tay quậy lên khoảng bốn lần, rồi thò tay vào trong vạc dầu đang sôi sùng sục lấy ra đủ 100 cái kim châm cứu cho vua. Bệnh liền bớt ngay. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, Vua Lý Thần Tông phong ông là Quốc sư, tha thuế dịch cho vài trăm hộ. Trong quốc sử còn ghi rằng: "Tục truyền khi sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao lại cho Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu thấy Quốc Vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này." [7]
Vùng đồi núi Gia Sinh, Gia Viễn hiện còn cái tên làng Sinh Dược (làng thuốc sống) do Lý Quốc Sư dùng cây thuốc ở đây chữa bệnh. Từ các loại thảo dược này ông đã chữa bệnh nan y cho vua Lý Thần Tông và bào chế ra nhiều loại thuốc chữa bệnh cho nhân dân, ông đã truyền lại cho dân nhiều bài thuốc hay và sử dụng thuốc nam, châm cứu chữa bệnh. Đến nay vùng đồi núi Sinh Dược, Gia Sinh vẫn còn nhiều cây thuốc quý như: Bình vôi, Ngành ngạnh, Hoài sơn, Khúc Khắc, Mặt quỷ, Bòn bọt, Hà thủ ô, Hy thiêm thảo, chè vằng, Thiên niên Kiện, Bố chính sâm...

Phục hưng nghề đúc đồng

Đình thờ ông tổ đúc đồng Nguyễn Minh Không ở Ngũ Xá - Hà Nội
Nguyễn Minh Không được các làng nghề đúc đồng suy tôn là ông tổ của nghề đúc đồng[8] mặc dù trước đó từ thế kỷ X, Vua Đinh Tiên Hoàng đã cho đúc tiền bằng đồng đầu tiên trong lịch sử. Với vai trò là quốc sư triều Lý, ông tham gia mở mang nhiều công trình phật giáo. Lý Quốc Sư là người đúc tượng phật chùa Quỳnh Lâm; đúc đỉnh đồng trên tháp Báo Thiên[9] góp phần tạo nên "An Nam Tứ đại khí" là những báu vật nổi tiếng của nước Đại Việt thời Lý - Trần. Ông là người sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh người Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng.
Đầu năm 1118 Nguyễn Minh Không đến chùa Tống Xá ở Nam Định, đã đi thăm các cánh đồng ở đây và thấy có một khu đất rộng, có loại đất sét tốt có thể làm khuôn đúc ở đây. Ông bèn hướng dẫn dân làng nghề đúc đồng. Từ đó cánh đồng có hố đào để lấy đất sét được gọi là cánh đồng Hố, từ thời Lê bắc thêm cầu nên gọi là cánh đồng Cầu Hố.[10]Ngày nay ở thôn Tống Xá có đền thờ ông tổ của nghề đúc đồng Việt Nam Nguyễn Minh Không.

Đức Thánh Nguyễn

Đền Thánh Nguyễn trên quê hương ông -Gia Viễn - Ninh Bình
Là một thiền sư giỏi về Phật pháp, giỏi cả pháp thuật, có công chữa bệnh cho vua Lý, là ông tổ của nghề đúc đồng... Nguyễn Minh Không được tôn là đức Thánh Nguyễn bên cạnh chức danh Quốc sư triều Lý. Dân gian có câu:[11]
Đại Hữu sinh Vương
Điềm Dương sinh Thánh.
Trong hai câu ca trên thì Vương ở đây chỉ Đinh Tiên Hoàng, Thánh chỉ Nguyễn Minh Không. Hai ông được sinh ra ở hai làng liền kề nhau thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình.
Tại núi Dương Sơn, có chùa Lạc Khoái xã Gia Lạc (Gia Viễn, Ninh Bình) còn câu đối:
Điềm Xá chung linh sinh Nguyễn thánh
Hoa Lư dục tú xuất Đinh Hoàng.
Trong tín ngưỡng Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng có 4 vị thần trong nhóm tứ bất tử đó là Tản Viên Sơn thần, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Công chúa. Tuy nhiên, thực tế các vị thánh trong tứ bất tử từng được ghi chép còn có Lý Quốc Sư.[12] Kiều Oánh Mậu người làng Đường Lâm là nhà học giả cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời Án sách Tiên phả dịch lục[13] có viết:
"Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là: Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. Vì bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào." [14]

Ông tổ nghề đúc đồng

Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không được những địa phương có nghề đúc đồng lâu đời như các làng nghề Yên Xá,[15] Tống Xá[16][17]  Ý Yên, lễ hội chợ Viềng (Nam Định); phố nghề Ngũ Xã, phố Lò Đúc (Hà Nội) [18]; Đình làng Chè, làng Rỵ (Thiệu Hoá, Thanh Hóa)[19], các làng nghề đồng Châu Mỹ, Long Thượng, Đông Mai (Hưng Yên)[20] và Đào Viên, Điện Tiền (Bắc Ninh) đều thờ và tôn vinh ông là ông tổ đúc đồng.[21]
Một số nơi như làng nghề đúc đồng Đông Sơn, Thanh Hóa và đền thờ sư tổ nghề đồng ở số 5 phố Châu Long – Hoàn Kiếm[22] thì Tổ sư nghề đúc đồng là ôngKhổng Minh Không. Trong các tài liệu lịch sử không có tên Khổng Minh Không. Dân gian đã hoà nhập Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không làm một thành Khổng Minh Không. Nhân dân những vùng này coi hai ông là tổ sư nghề đồng của Việt Nam. Đây cũng là một sự tích của Không Lộ dân gian nhập vào với Minh Không. Điều này còn tìm thấy trong văn bia chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo (Hành Thiện - Nam Hà), chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều - Quảng Ninh), chùa La Vân (Quỳnh Phụ - Thái Bình).
Theo truyền thuyết dân gian một số vùng ở Nam Định và Thái Bình, Thánh Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không hầu như được đồng nhất với nhau trong một thánh Không Lộ[23][24][25]. Một số tư liệu, thư tịch cổ cũng cho rằng Nguyễn Minh Không, húy Chí Thành, hiệu Không Lộ và Không Lộ chỉ là tên ngôi chùa mà nhà sư Minh Không từng ở.[26] Sách "Lĩnh Nam chích quái" chép rằng "chùa Không Lộ ở làng Giao Thuỷ có nhà sư Minh Không". Có ý kiến rằng Dương Không Lộ thực chất là tên lấy theo họ mẹ của Minh Không ghép với hiệu Không Lộ.
Một số tư liệu, thư tịch cổ và ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không là người khác biệt, có tiểu sử rõ ràng, cả hai ông đã từng chữa khỏi bệnh cho vua.[27] Tuy nhiên, tài liệu quan trọng và đầy đủ như Đại Việt sử ký toàn thư lại hoàn toàn không có nhân vật Dương Không Lộ, chỉ thấy 3 đoạn ghi chép về đại sư Minh Không.[28]
Hơn nữa, Theo sách "Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược" (Phòng Địa chí - Thư viện tỉnh Nam Định chế bản) tại trang 146, trong mục chùa Keo thì: Không Lộ tên chính là Nguyễn Chí Thành người xã Điềm Xá huyện Gia Viễn cùng Nguyễn Viết Y người xã Loa Điền Hải Thanh kết bạn với nhau, Chí Thành đạo hiệu là Không Lộ, Viết Y đạo hiệu là Giác Hải, sau gặp sư Từ Đạo Hạnh người Yên Lãng cùng sang Tây Trúc học đạo đều thành.[29]
Các nhà nghiên cứu cho rằng Dương Không Lộ là một mô típ độc đáo trong nền văn hoá của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở đồng bằng Bắc bộ nói chung và vùng Keo nói riêng. Không Lộ vốn là một nhân vật được xây dựng từ những mảnh vụn huyền thoại, được lịch sử hoá để trở thành một ông Không Lộ - có yếu tố của một anh hùng văn hoá. Từ sự tích của thiền sư Dương Không Lộ có thể thấy sự đan xen các lớp văn hoá, tín ngưỡng khó có thể nhận ra từng yếu tố, đâu là những mảnh vụn huyền thoại được thần thoại hoá, lịch sử hoá, tín ngưỡng thờ thần linh nông nghiệp, thần đánh cá, thờ Tổ nghề và lớp văn hoá Phật giáo để một nhân vật "vốn có lẽ không có thật" trở thành một thiền sư thuộc thế hệ thứ 9 của dòng thiền Vô Ngôn Thông với tiểu sử, hành trạng rõ ràng và được nhân dân tôn vinh trở thành một vị Thánh.
Tên tuổi của Nguyễn Minh Không đã gắn liền với nhiều truyền thuyết hoang đường và kỳ bí. Rất nhiều nơi, đặc biệt là các chùa ở Việt Nam thờ vị quốc sư này theo kiểu "tiền phật hậu thánh". Trong số các chùa, đền thờ quốc sư, tập trung nhiều nhất là các tỉnh Ninh Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội, Nam Định, Thái Bình... Trong dịp lễ hội ở các đền thờ này, thường có tục bơi chải vào ngày hội, tục này chắc liên quan đến giai thoại nhà sư đi thuyền một đêm mà đến được Kinh đô.[30]
Tại quê hương Ninh Bình  đền thờ đức Thánh Nguyễn trên mảnh đất sinh ra ông thuộc địa phận hai xã Gia Thắng - Gia Tiến, Gia Viễn. Xưa đây là chùa Viên Quang, sau khi ông mất nhân dân biến Viên Quang Tự thành đền thờ trấn Bắc Hoa Lư tứ trấn.[31]. Đền thờ Nguyễn Minh Không ở khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính là nơi ông đã phát hiện ra các động và biến chúng thành chùa khi đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Tại chùa Địch Lộng ở huyện Gia Viễn, nơi được mệnh danh là "Nam thiện đệ tam động", tức động đẹp thứ 3 của trời Nam cũng có đền thờ và tượng của ông. Khu di tích động Hoa Lư thì phối thờ tượng ông cùng với tượng vua Đinh Tiên Hoàng trong ngôi đền cổ. Lý Quốc Sư còn được thờ ở đình Ngô Đồng, xã Gia Phú, Gia Viễn; đền thờ Tô Hiến Thành và chùa Lạc Khoái ở bên sông Hoàng Long gắn với giai thoại tuổi thơ ông. Ông cũng được thờ ở chùa Nhất Trụ  động Am Tiên  cố đô Hoa Lư. Tại đền Thượng xã Khánh Phú và đền Tam Thánh ở xã Khánh An, Yên Khánh ông được suy tôn là đức thánh cả.
 Nam Định cũng có khá nhiều chùa thờ quốc sư Minh Không mà tiêu biểu nhất là chùa Cổ Lễ, ngôi chùa do Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không sáng lập. Đại sư Minh Không cũng được thờ ở chùa Xuân Trung xã Xuân Bắc (Xuân Trường) và xã Điền Xá (Nam Trực). Ở Ý Yên, Thánh tổ Minh Không được thờ ở đình Cổ Hương xã Yên Phương; đình Phúc Thọ xã Yên Thành và đền Tống Xá xã Yên Xá. Ông còn được phối thờ cùng Lý Thần Tông và Giác Hải tại chùa Nghĩa Xá ở xã Xuân NinhXuân Trường. Lễ hội chợ Viềng hàng năm gắn liền với việc thờ ông Nguyễn Minh Không, ông tổ đúc đồng, nên trước đình ông Khổng, người dân thường bày bán đồ đồng, đồ sắt.[32] chùa Keo Hành Thiện, xã Xuân Hồng cũng hòa nhập thần tích của Nguyễn Chí Thành và Dương Minh Nghiêm thành một thánh Không Lộ.
 Thái Bình các di tích thờ quốc sư Minh Không có nhiều ở huyện Quỳnh Phụ như: Chùa Hóa Long ở thôn Đại Nẫm, xã Quỳnh Thọ;[33] đền thờ và chùa La Vân ở xã Quỳnh Hồng; đền Soi ở thôn Đồng Mỹ xã Quỳnh Lâm. Các nơi khác thờ đại sư như đền Ngũ xã Điệp Nông, Hưng Hà; Chùa Am ở xã Vũ Tây, huyện Kiến Xương. Riêng khu vực Chùa Keo (Vũ Thư) thì có nhiều di tích, thần tích liên quan đến Nguyễn Minh Không.
 Hà Nội có đền thờ Lý Quốc Sư trên con phố mang tên Lý Quốc Sư. Chùa Quán Sứ ở phố Quán Sứ hiện là trụ sở giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng có ban thờ riêng để tôn vinh vị cao tăng này. Đền Thần Quang (Ngũ Xã) và chùa Tổ Ong ở 79 phố Lò Đúc cũng thờ ông với tư cách tổ nghề đúc đồng[34] Ông cũng được thờ ở chùa Thiên Vũ ở La Dương, phường Dương Nội, quận Hà Đông và đền Lạc Chính, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình. Ông cũng được phối thờ cùng Giác Hải tại khu di tích Từ Đạo Hạnh ở chùa Thầy.
 Hải Dương có chùa Trông (Hưng Long - Ninh Giang); Đình Cao Dương (Đình Hói) ở xã Gia Khánh và Đình Hậu Bổng (Đình Bóng) tại xã Quang Minh, Gia Lộc; chùa Kính Chủ ở xã An Sinh, huyện Kim Môn là nơi thờ Nguyễn Minh Không.
 Quảng Ninh, Nguyễn Minh Không là sư tổ chùa Quỳnh Lâm, Đông Triều.
 Hưng Yên, 3 trong 5 làng nghề đúc đồng tạo lên làng Ngũ Xã (Hà Nội) là Châu Mỹ, Long Thượng (xã Đại Đồng) và Đông Mai (xã Chỉ Đạo) thuộc huyện Văn Lâm đều thờ ông với tư cách tổ nghề đúc đồng của các làng nghề này.
 Bắc Ninh, việc thờ Nguyễn Minh Không có tới hàng chục di tích thuộc địa bàn các huyện: thành phố Bắc Ninh, Tiên Du, Quế Võ, Lương Tài, Gia Bình xưa vốn là quê ngoại của người, tiểu biểu như chùa Phả Lại ở Đức Long, Quế Võ và đình làng Đào Viên và Điện Tiền thuộc xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành thờ thánh Nguyễn với vai trò sư tổ của nghề đúc đồng.
 Bắc Giang, Lý Quốc Sư cũng được thờ ở đình Thắng xã Đức Thắng, Hiệp Hòa,...
Tên tuổi của quốc sư Minh Không được đặt cho nhiều đường phố ở Việt Nam như đường Lý Quốc Sư ở các thành phố Nha Trang, Hà Nội, Tam Điệp,... hay đường Nguyễn Minh Không ở các thành phố Ninh Bình, Đà Nẵng,...

Trong thơ ca

Sách Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược trang 127 có viết giai thoại về sư Minh Không như sau: "Sư Nguyễn Chí Thành quê ở Điềm Xá Gia Viễn thường câu cá tại núi Tai Mèo, rồi chèo thuyền ra cửa biển Thần Phù, để thẳng đến Tây Chân đi bán, thường gánh đá một bên cho cân với cá, đi đường đá bị rơi sư đạp viên đá ra viên đá vỡ còn dấu tại xã Liên Tỉnh xã Tương Đông" và trích bài thơ của sử gia Lê Tung (đời Lê Sơ) khi về thăm di tích này như sau:[35]
Nguyên bản: Bài "Kiến Liên xã thuyết đáo Nguyễn thiền sư nhân tác thi sĩ lưu vu tự bi chi hậu":
Miêu lĩnh thuyền hành xuất hải tần,
Thần phù bắc hướng đáo Tây Chân,
Bộ trình đảm thạch lưu Liên xã,
Khứ mãi lai cư hữu toạ ngân,
Tây Lạc thị chiền dân thượng ký,
Quần Hàn cổ sát ấp tôn thân.
Lý triều chư xứ phương danh tại,
Linh khí y nhiên mục tự tân.
              Núi Mèo ra biển cửa Thần Phù,
Thuyền hướng Tây Chân chở lướt đi,
Liên Tỉnh đá rơi đường chẳng mất,
Chỗ ngồi bán cá vết như y,
Chợ nơi Tây Lạc dân còn nhớ,
Chùa đất Quân Hàn nghĩa vẫn ghi.
Triều Lý các nơi di tích ấy,
Khí thiêng nêu đậm buổi tu trì)

Vai trò của Thiền sư Quốc sư Viên Thông (1080-1151)
Quốc sư họ Nguyễn, húy là Nguyên Ức, quê ở hương Cổ Hiền, sau dời về ở phường Thái Bạch, kinh đô Thăng Long. Gia đình sư mấy đời giữ chức tăng quan. Cha là Huệ Dực, làm quan đến chức Tả hữu nhai tăng lục dưới triều Lý Nhân Tông, đạo hiệu là Bảo Giác. Sư bẩm tính thông minh, học tập chóng tiến, đạt đến mức tinh diệu, từ nhỏ đã có chí xuất gia, thường đến chùa An Quốc học đạo với thiền sư Viên Học, nhờ đó hiểu sâu yếu chỉ thiền tông. Năm Hội Phong thứ 6 (1097), sư đỗ đầu khoa thi Tam giáo, được sung chức Dại Văn(2). Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 8 (1108) triều đình mở khoa thi Hoành tài để chọn người bổ giữ chức quan tăng, đạo còn khuyết, sư lại đỗ đầu. Vua Lý Nhân Tông cho là bậc kỳ tài, định phong quan tước, nhưng sư cố từ, chỉ nhận chức Nội cung phụng truyền pháp sư. Từ đó sư tùy có giảng hóa tiếp dẫn, phàm người thế tục đến tham vấn đều được sư giải mê giác ngộ. Những người thụ nghiệp với sư về sau đều trở thành nổi tiếng đương thời.
Năm Đại Khánh thứ 3 (1112) trùng hưng chùa Diên Thọ, khi hoàn thành, sư vâng mệnh vua soạn văn bia. Vua đánh giá cao tài năng của sư, thăng cho sư giữ chức Tả nhai tăng lục. Năm Thiên Thuận thứ 3 (1130) đời Lý Nhân Tông, vua thỉnh sư vào điện Sùng Khải để hỏi kế hưng, vong, trị, loạn. Sư đáp:
- Thiên hạ cũng ví như đồ dùng, đặt vào chỗ yên thì nó được yên, đặt vào chỗ nguy thì tất bị nguy. Xin bệ hạ hành sử đức hiếu sinh cho hợp với lòng dân thì dân sẽ kính yêu như cha mẹ, ngưỡng mộ như mặt trăng mặt trời. Ấy là đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy.
Sư lại nói:
- Trị hay loạn là ở dân. Quan lại được lòng người thì trị, mà mất lòng người thì loạn. Thần trải xem các bậc đế vương đời trước, chưa từng có triều đại nào không dùng quân tử mà hưng thịnh, mà cũng không có triều đại nào không dùng tiểu nhân mà suy vong. Nguồn gốc dẫn đến điều đó thì không chỉ một sớm một chiều, mà có mạnh  nha từ trước. Trời đất không thể nóng hay lạnh tức khắc, mà phải chuyển biến dần từ mùa xuân qua mùa thu. Bậc nhân quân chỉ trong một lúc được hay mất thiên hạ, tất là do đức thiện hay ác đã tích tụ từ lâu. Các bậc thánh vương đời xưa biết vậy nên bát chước trời(1)không ngừng sửa mình; bắt chước, không ngừng tu đức để giữ yên dân. Sửa mình thì trong lòng thận trọng như đi trên băng mỏng, yên dân thì kinh sợ như người cưỡi ngựa mà nắm dây cương mục nát. Được như thế thì không thể không hưng thịnh, không được như thế thì không thể không suy vong. Sư hưng vong diễn tiến dần dần là như vậy.
Lời đáp của sư quả nhiên hợp ý vua, vua bên gia phong sư chức Hữu nhai tăng thống, trông coi công việc của bản đạo. Từ đó sư được tùy ý ra vào cung cấm để dâng lời khuyên răn can gián, chưa từng biếng trễ với chức vụ giúp rập vua. Về sau, sư vâng mệnh đến quán Tây Dương làm lễ bao vệ thai Vua(1) có ứng nghiệm. Vua lại càng thêm quý trọng, khi có lễ triều yết, sư được đứng cùng thứ bậc với thái tử.
Năm Thiên Chương Bảo Tự(2) thứ 5 (1137) vua Lý Thần Tông băng hà, vâng theo di chiếu, sư được dự hàng cố mệnh đại thần, được ủy thác các việc triều chính.
Năm Triệu Minh thứ nhất (1138), vua Lý Anh Tông lên ngôi khi còn nhỏ tuổi, thái hậu nhiếp chính, xét sư là người có công tôn lập hoàng thái tử nên nhiều lần ban thưởng trọng hậu.
Sau sư trở về bản quán dựng chùa Quốc Ân, trụ trì tại đó cho đến cuối đời. Triều đình lại cho ba thôn sở tại được miễn tô thuế, lấy đó chu cấp phí dụng cho chùa để tỏ ý khen thưởng.
Năm Đại Định thứ 4 (1143) sư được tiến phong Tả hữu nhai tăng thống nội cung phụng tri giáo môn công sự, truyện giảng Tam tạng văn chương, ứng chế hộ quốc quân sư, ban hàm Tử y đại sa môn. Đó là chức vị quan trọng, quá là bậc đại thần được trong triều ngoài quận tôn kính.
Ngày 21 tháng tư năm nhuận Tân mùi, niên hiệu Đại Đinh (1151), sư không bệnh, gọi tăng chúng đến quyết biệt rồi qua đời, thọ 72 tuổi.
Sư từng âng chiếu chỉ soạn sách Chư Phật tích duyên sự (hơn 30 quyển), Hồng chung văn bi ký, Tăng gia tạp luc (hơn 50 quyển), thơ phú có đến hơn nghìn bài lưu hành ở đời.

N (1042-1113) 
Viện Hương Hải, hương Phù Đổng, huyện Tiêu Du.
Ni sư húy là Ngọc Kiều, trưởng nữ của Phụng Kiền vương.
Bà thiền tư tư thuần hậu, ngôn hạnh đoan trang, được vua Lý Thánh Tông nuôi ở trong cung từ nhỏ. Đến tuổi trưởng thành, vua gả bà cho châu mục châu Chân Đăng(1) họ Lê. Ông họ Lê mất, bà thề thủ tiết không tái giá. Một hôm bà phàn nàn rằng:
- Ta xem tất cả các pháp trong thế gian đều như mộng ảo, huống gì là những thứ vinh hoa phù phiếm mà có thể trông cậy được hay sao?
Từ đó bà dốc tư trang, gia sản bố thí cho dân chúng, rồi cạo tóc xuất gia, tìm đến xin thụ giới Bồ Tát với thiền sư Chân Không ở hương Phù Đổng. Ni sư chuyên chú học hỏi những điều tâm yếu, được thiền sư Chân Không đặt cho pháp danh là Diệu Nhân và đưa đến trụ trì ở Ni viện Hương Hải. Sư tu tập, hành thiền được chính định, trở thành bậc mẫu mực trong hàng ni sư thời bấy giờ. Có người đến cầu học, sư tất dạy cho tập Đại thừa. Sư nói:
- Nếu trở về được nguồn tự tính thì đốn ngộ hay tiệm ngộ cũng sẽ tùy đó mà thể nhận.
Sư thường thích lặng lẽ, tránh thanh sắc ồn ào.
Có đệ tử hỏi:
- Hết thảy chúng sinh bệnh thì ta cũng bệnh, tại sao lại cứ phải kiêng kỵ thanh sắc?
Sư dẫn kinh sách đáp:
- Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như lai
Dịch:
Nếu dùng sắc thấy ta
Lấy âm thanh cầu ta
Người ấy hành tà đạo
Chẳng thể thấy Như lai.
Lại hỏi:
- Ngồi yên là thế nào?
Đáp:
- Xưa nay vốn không đi.
Lại hỏi:
- Không nói là thế nào?
Đáp:
- Đạo vốn không lời.
Ngày mồng một tháng sáu năm Hội Tường Đại Khánh thứ 4 (1113), sư lâm bệnh, gọi tăng chúng đến đọc kệ rằng:
Sinh, lão, bệnh, tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải phọc thiêm triền
Mê chi cầu Phật
Hoặc chi cầu thiền
Thiền, Phật bất cầu
Uổng khẩu vô ngôn.
Dịch:
Sinh, lão, bệnh, tử
Lẽ thường tự nhiên
Muốn cầu thoát ly
Càng thêm trói buộc
Mê, mới cầu Phật
Hoặc, mới cầu Thiền
Chẳng cầu Thiền, Phật
Mím miệng ngồi yên
Nói xong bèn gội tóc, tắm rửa sạch sẽ, ngồi kiết già mà viên tịch, thọ 72 tuổi

Thiền sư Viên Chiếu (999-1090)
          Thiền sư họ Mai, tên Trực, người huyện Long Đàm(1), châu Phúc Đường, là con người anh thái hậu Linh Cảm đời Lý(2). Thuở nhỏ ông thông minh mẫn tuệ, hiếu học. Nghe tiếng trưởng lão ở chùa Mật Nghiêm giỏi xem tướng, ông bèn đến nhờ xem hộ. Trưởng lão xem kỹ tướng mạo rồi nói: “Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia tất sẽ là vị Thiện Bồ tát; nếu không thì thọ yểu chưa biết thế nào”. Sư cảm ngộ rồi từ biệt thân quyến tìm đến thụ nghiệp với thiền sư Định Hương ở núi Ba Tiêu. Trong những năm ấy, sư suy cứu thiền học, chuyên chủ trì tụng kinh Viên Giác, tinh thông phép Tam quán(3). Một đêm sư đang ngồi thiền định thì mơ thấy Văn Thủ Bồ Tát cầm dao mổ bụng lôi ruột sư ra rửa, rồi trao cho diệu dược để chữa vết thương. Từ đó sư hiểu sâu ngôn ngữ Tam muội, thuyêt giảng trôi chảy. Sau sư đến vùng gần kinh kỳ dựng chùa trụ trì, người đến theo học đông nườm nượp. Có vị tăng hỏi:
- Nghĩa của Phật và thánh như thế nào?
Sư đáp:
- Cúc trùng dương dưới giậu
Oanh xuân ấm đầu cành.
(Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh)
Lại hỏi:
- Đa tạ hòa thượng, nhưng kẻ học này chưa hiểu, xin hòa thượng chỉ giáo thêm cho.
Sư đáp:
- Ngày qua vầng ô chiếu
Đêm đến bóng thỏ soi.
(Trú tắc kim ô chiếu
Dạ lại ngọc thố minh)
Hỏi:
- Đệ tử hiểu ý thầy
Huyền cơ là gì đây?
(Dĩ hoạch sư chân chỉ
Huyền cơ thị như hà?)
Đáp:
- Nước đựng đầy thau bưng bất cẩn
Vấp chân soài ngã hối làm chi.
(Bất thận thủy bàn kình mãn khứ
Nhất tao tha điệt hối hà chi?)
Thiền tăng nói:
- Đa tạ lời chỉ giáo của hòa thượng
Sư nói:
- Chớ rửa trên mặt nước
Thân gieo nước tự chìm.
(Mạc trạc giang ba nịch
Thân lại khước tự trầm)
Hỏi:
- Thiếu Thất (1), Ma Kiệt(2) rất huyền diệu, từ xưa đến nay ai kể nối làm chủ?
Đáp:
- Tượng trời nhật nguyệt thay sáng tối
Mạch đất quanh co nối Nhạc Hoài(3).
(U minh kiền tượng nhân ô thố
Khuất khúc khôn duy vị Nhạc Hoài)
Hỏi:
- Thế nào là đạo lớn
Nguồn căn một lối về?
(Như hà thi đại đạo
Căn nguyên nhất lộ hành)
Đáp:
- Gió thốc non cao hay cỏ cứng
Nước mà nguy biến biết tôi trung.
(Cao ngạn tật phong tri kính thảo
Bang gia bản đăng thức trung lương)
Hỏi:
- Tất cả chúng sinh từ đây tới, trăm năm sau về đâu?
Đáp:
- Rùa mù đào vách núi
Trạch que ngược núi cao.
(Manh quy xuyên thạch bích
Phả miết thướng cao sơn)
Hỏi:
- Trúc biếc xanh xanh cũng đều là Chân như. Như vậy cái “dụng” của Chân như là thế nào?
Đáp:
Tặng người đi nghìn dặm
Cười đưa một ấm trà.
(Tặng quân thiên lý viễn
Tiếu bả nhất bình trà)
Hỏi:
- Thế nào là “uổng công đến mà chẳng ích gì?”
Đáp:
- Ai biết lên gò núi
Trên đường đã bạc đầu
(Thùy thức đông a khứ
Đồ trung tái bạch đầu)
Hỏi:
- Nhà sâu hiên im vắng
Ai biêt bọn ta tìm
(Dã hiên nhất thâm hộ
Thùy thức đáng nhàn xao?)
Đáp:
- Kim cốc(1) tiêu điều hoa cỏ xác
Trâu dê sớm tối mặc ra vào.
(Kim Cốc tiêu sơ hoa thảo loạn
Nhi kim hôn hiểu nhậm ngưu dương)
Hỏi:
- Sao lại như thế?
Đáp:
Phú quý không dè xẻn
Lâu đài nối biển khơi
(Phú quý kiêm kiêu thái
Phiên linh bại thị lâu)
Hỏi:
- Long Nữ(2) dâng châu thành Phật quả
Đàn Na(1) bố thí phúc hằng bao?
(Long nữ hiến châu thành Phật quả
Đàn Na xả thí phúc như hà)
Đáp:
- Quế trong trăng muôn thuở
Xum xuê vẫn một vầng.
(Vạn cổ nguyệt trung quế
Phù sơ tại nhất luân)
Hỏi:
- Thế nào là “vất vả mà chẳng nên công”?
Đáp:
- Trời cao như gương sáng
Người đời chốn chốn thông
(Thiên thượng như huyền kính
Nhân gian xứ xứ thông)
Hỏi:
- Qua sông dùng bè mảng
Đến bền bỏ ghe thuyền
(Độ hà tu dụng phiệt
Đáo ngạn bất tu thuyền)
Vậy không sang sông thì thế nào?
Đáp:
- Ao khô cá mắc cạn
Sống được ắt muôn xuân.
(Hạc trì ngư tại lục
Hoạch hoạt vạn niên xuân)
Lại hỏi:
- Thế nào là “theo dòng thì mới được diệu lý”?
Đáp:
- Chuyện cũ Kinh Kha đấy
Một đi chẳng trở về.
(Kiến thuyết Kinh Kha lữ
Nhất hành cánh bất hồi)
Hỏi:
- Quặng vàng lẫn lộn đều nguyên khí
Xin sư phương tiện luyện cho tinh
(Kim khoáng hỗn giao nguyên nhất khí
Thỉnh sư phương tiện luyện tinh hình)
Đáp:
- Chẳng phải Tề quân(1) khách
Nào hay cá biển to.
(Bất thị Tê quân khách
Ná trì hải đại ngư)
Hỏi:
- Quách ông(2) chẳng chịu hiểu
Cán gián có làm chi?
(Quách quân nhược bất nạp
Gián ngữ diệc hề vi)
Đáp:
- Nếu muốn uống rượu trước
Đừng vẽ rắn thêm chân
(Nhược dục tiên đề ấm
Hưu vi xảo họa xà)
Hỏi:
- Rắn sắp chết giữa đường, xin thầy cứu sống?
Sư hỏi lại:
- Ngươi là người phương nào?
Đáp:
- Vốn là người ở núi.
Sư nói:
- Núi xưa về ẩn gấp
Đừng gặp Hứa chân quân(1)
(Cấp hồi cựu nham ẩn
Mạc kiến Hứa chân quân)
Thầy tăng lại hỏi:
- Kho biển mênh mông chẳng màng đến
Khe tào róc rách, ý sao đây?
(Hải tạng thao thao ưng bất vấn
Tào Khê trích trích thị như hà)
Đáp:
- Thông reo trước gió tiếng buồn thay
Mưa tạnh sau chân biết lối lầy
(Phong tiền tùng hạ thê lương vận
Vũ hậu đồ trung thiền trọc nê)
Hỏi:
- Như thế nào là “không khác ngày nay”?
Đáp;
- Cúc trùng dương dưới giậu
Oanh ngày ấm đầu cành
(Ly hạ trùng dương cúc
Chi đầu noãn nhật oanh)
Hỏi:
- Rõ ràng giữa chốn sắc thân
Chói lọi ở trong tâm mục
(Chiêu chiêu tâm mục chi gian
Lãng lãng sắc thân chi nội)
Vậy mà lý không phân biệt được, hình không trông thấy được. Tại sao không thể thấy?
Đáp:
- Trong vườn hoa rực rỡ
Trước bến, cỏ lơ phơ
(Uyển trung hoa lạn mạn
Ngạn thượng thảo li phi)
Hỏi:
- Lạnh trời mầm cây rụng
Lấy gì để khoe tươi?
(Tuế hàn quần miêu lạc
Hà di khả tuyên dương)
Đáp:
- Mừng ông đã thấu đạt
Chẳng cũng vui lắm sao?
(Hỉ quân lai tự đạt
Bất diệc thả hoan ngu)
Tăng nói:
- Được lời thầy chỉ giáo
Từ này thoát ưu phiền.
(Hạnh văn kim nhất quyết
Từng thứ miễn hốt vô)
Sư đáp:
- Vũng cạn vừa lên khỏi
Quay đầu vạn dặm sâu.
(Thiển nịch tài đề xuất
Hồi đầu vạn trượng đàm)
Hỏi:
- “Niết Bàn thành nội thượng do nguy”. (Lời kinh nói: “Ở chốn Niết Bàn nguy còn đến”). Vậy biết nơi nào hết hiểm nguy?
Đáp:
- Xây tổ trên màn trướng
Tóc râu xoã cành lau
(Doanh sào liêm mạc thượng
Tu phát vi thiều kinh)
Hỏi:
- Nếu gặp khi bức bách
Hai đường theo nẻo nào?
(Nhược tao thì bách cận
Lưỡng cứ thị hà vi)
Đáp:
- Phóng đãng tùy ý thích
Tiêu dao với gió trăng
(Trượng phu tùy phóng đăng
Phong nguyệt thả tiêu dao)
Hỏi:
Tất cả chúng sinh, điều nói là Phật, Lý ấy chưa rành. Xin thầy chỉ giáo (Nhất thiết chúng sinh; Giai ngôn thị Phật, Thử lý vị minh, thỉnh sư thùy thị)
Đáp:
- Chăm bón nông tang ngươi hãy gắng
Chớ học ôm cây đợi thỏ qua
(Khuyến quân thả vu nông tang khứ
Mạc học tha nhân đãi thố lao)
Tăng nói:
- Được lời thầy chỉ giáo
Ngoài chẳng hỏi ai chi.
(Hạnh mông sư hiển quyết
Chung bất hướng tha cầu)
Sư nói:
- Đáng thương người nấc nghẹn
Ngồi đói chịu quên ăn.
(Khả lân tao nhất ế
Cơ tọa khước vong xan)
Tăng nói:
- Ngọc vàng cất giấu trong rương đẫy
Rành rõ giờ đây được ngắm xem.
(Kỷ niên cửu tích nang trung báu
Kim nhật đương trường địch diện khan)
Sư nói:
- Đợi trung thu trăng sáng
Ngờ đâu mây tối trời
(Chỉ đãi trung thu nguyệt
Khước tao vân vũ xâm)
Tăng nói:
- Tuy nghe thầy thuyết giảng
Lẽ ấy chưa rõ ràng.
(Tuy văn sư ngữ thuyết
Thử lý vị phân minh)
Sư đáp:
- Cười kẻ ôm cột cầu
- Chết đuối giữa dòng sâu
(Tiếu tha đồ bão trụ
Nịch tử hướng trung lưu)
Hỏi:
- Thế nào là “nhất pháp”?
Đáp:
- Chỉ thấy xuân qua hè lại đến
Mới vào thu chín, gật đông về
(Thốn kiến xuân sinh kiêm hạ trưởng
Hựu phùng thu thục cập đông tàng)
Hỏi:
- Như thế nào là nhiều người được thành Phật?
Đáp:
- Thủy Hoàng tìm Tiên mỏi
Từ Phúc mãi chẳng về
(Tổ Long khu tự chỉ
Từ Phúc viễn đồ lao)(1)
Lại hỏi:
- “Kiến tính thành Phật” (thấy được bản tính thì thành Phật) nghãi là thế nào?
Đáp:
- Cây héo vào xuân hoa nở rộ
Gió đưa nghìn dặm nức hương thần
(Khô mục phùng xuân hoa canh phát
Phong suy thiên lý phức thần hương)
Tăng nói:
- Đệ tử chưa hiểu, xin thầy giảng lại cho.
Sư đáp:
- Vạn năm cây cà ấy
Tươi tốt vút tầng mây
(Vạn niên già tử thụ
Thương thúy tủng vân đoan)
Hỏi:
Ma Ni cùng các sắc
Chẳng hợp cũng chẳng rời
(Ma Ni dữ chúng sắc
Bất hợp bất phân ly)
Đáp:
- Hoa xuân cùng bướm trắng
Lúc luyến hay chia ly?
(Xuân hoa dữ hồ điệp
Kỷ luyến kỷ tương vi)
Tăng hỏi:
- Thế nào là “Tuy hóa hỗn tạp”?
Đáp:
- Chẳng phải sư Thiên Trúc
Uổng ngắm ngọc Biên châu
(Bất thị Hồ tăng nhân
Đồ lao sính Biện châu)
Lại hỏi:
- Thế nào là “xúc mục bồ đề”? (Chân lý gần ngay trước mắt).
Đáp:
- Cây cong chim hoảng sợ
Thổi mãi lạnh cóng người
(Kỷ kinh khúc mục điểu
Tân xuy lãnh tê nhân)
Hỏi:
- Kẻ học này chưa hiểu, xin thầy đổi cho thí dụ khác.
Đáp:
- Kẻ điếc nghe đàn sáo
Người mù ngắm trăng sao
(Tủng nhân thính cầm hưởng
Manh giả vọng thiềm thừ)
Hỏi:
- Vốn đã có hình thì có bóng
Phải chăng lại có bóng không hình?
(Bản tự hữu hình kiêm hữu ảnh
Hữu thời ảnh dã lý hình phầu?)
Đáp:
- Nước đổ về đông chừ, đua chảy vạn dòng.
Sao chầu hướng bắc chừ, muôn thuở cùng lòng.
(Chúng thủy triều đông hề, vạn phái tranh lựu,
Quần tinh củng bắc hề, thiên cổ quy tâm)
Hỏi:
- Thế nào là “một câu rõ hết hơn cả muôn câu”?
Đáp:
- Xách bổng Thái Sơn về Bắc Hải
Ngước tung thiền trượng tới cung trăng
(Viễn phù Thái son siêu Bắc hải
Ngưỡng phao trụ trượng nhập thiềm cung)
Hỏi:
- Chỉ sự ấy là thực
Ngoài ra chẳng phải chân?
(Duy thử nhất sự thực
Dư nhị tức phi chân)
Vậy thế nào là “chân”?
Đáp:
- Gió dễ lay đầu gậy
Đường đi mưa sinh lầy
(Trượng đầu phong dị động
Lộ thượng vũ thành nê)
Hỏi:
- Không hướng Như Lai xin diệu tạng
Nối đèn lửa tổ chẳng cầu xin
(Bất hướng Như lai thì diệu tạng
Bất cầu tổ diệm tục đăng chi)
Ý chỉ câu ấy là thế nào?
Đáp:
- Trong tuyết mẫu đơn nở
Trời thu oanh hót vang
(Thu thiên đoàn thử lệ
Tuyết cảnh mẫu đơn khai)
Hỏi:
- Thế nào là câu tuyệt diệu?
Đáp:
- Một người quay vào vách
Cả nhà uống mất vui
(Nhất nhân hướng ngung lập
Mãn tọa ẩm vô hoan)
Lại hỏi:
- Cổ kim việc lớn không nên hỏi
Thiền từ Tây tới hỏi nên chăng?
(Cổ kim đại sư ưng vô vấn(1)
Đặc địa tây lai ý nhược hà)
Đáp:
- Kẻ khéo mồm giả dối
Mai trơ ngói vỡ thôi(2)
(Xoả ngọn lệnh sắc giả
Toàn quy đả ngoã nhân)
Hỏi:
- Cả tâm và pháp đều quên, tính tức Chân, vậy thế nào là “Chân”?
Đáp:
- Mưa tươi non hoa, Thần nữ khóc(3)
Gió khua rặng trúc, Bà Nha đàn.
(Vũ trích nham hoa Thần nữ lệ
Phong xao đỉnh trúc Bá Nha cầm)
Lại hỏi:
- Thế nào là câu tuyệt diệu?
Đáp:
- Trong cổ còn vường hóc
Đừng ngồi có yên dâu.
(Hu lý do tồn ngạnh
Thường cư bất khoái nhiên)
Hỏi:
- Còn “tu” còn “chứng” sinh bốn bệnh
Vươn đầu nào có thoát trần ra.
(Hữu tu hữu chứng khai tứ bệnh
Xuất đâu hà khả thoát trần lung)
Đáp:
- Biển rộng bao dung nhiều nguồn nhỏ
Non cao giữ mãi bụi hồng trần
(Sơn cao cánh tại dung trần trữ
Hải khoát năng thâm nạp tế lưu)
Hỏi:
- Trong sách nói: “Chỉ có Phật với Phật mới biết việc này”. Ấy là việc gì?
Đáp:
- Đường hẹp trúc um tùm
Gió reo nhạc tự thành
(Hiệp kính sum sum trúc
Phong xuy khúc tự thành)
Hỏi:
- Không theo bình thường, không theo thiên nhiên, không theo công dụng, vậy nay biết làm thế nào?
Đáp:
- Cỏ bồng chim sâu đậu
Biển biếc náu giao long.
(Bồng thảo thê đê yến
Thương minh ẩn cự lân)
Hỏi:
- Tứ đại(1) mang về từ nhiều kiếp
Thỉnh sư phương tiện thoát luân hồi.
(Tứ đại đới lai do khoáng kiếp
Thỉnh sư phương tiện xuất luân hồi)
Đáp:
- Tê giác là loài súc thú hiếm
Ăn bằng gai góc, ngủ trong bùn.
(Cử thế súc đồ tê thị bào
Xan ư kinh cức ngọa ư nê)
Hỏi:
- “Thủ” hay “xả” đều là ở trong vòng luân hồi; không “thủ”, không “xả” thì thế nào?
Đáp;
- Xưa nay hồng đẹp, sắc nay khác
Cành lá xum xuê chẳng có hoa
(Tòng lai hồng hiện thủ thường sắc
Hữu diệp sâm si bất hữu hoa)
Hỏi:
- Nói “Ngôn ngữ đạo đoạn” (dứt hết nói năng) là nghĩa thế nào?(1)
Đáp:
- Gió thổi sừng kêu xuyên rặng trúc
Vầng trăng vượt núi đến bên tường
(Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo
Sơn nham đái nguyệt quá tường lai)
Hỏi:
- Chư Phật thuyết pháp đều nhằm giáo hóa mọi loài, nếu hiểu thấu bản ý thì gọi là “xuất thế”. Như thế nào gọi là “bản ý”?
Đáp:
- Xuân dệt hoa như gấm
Thu sang đổ là vàng
(Xuân chức hoa như gấm
Thu lại diệp tự hoàng)
Hỏi:
- Như thế nào gọi là “một đường đưa thẳng đến nguồn gốc của đại đạo”?
Đáp:
- Đông tây xe ngựa ruổi
Sớm tối bụi trần bay
(Đông tây xa mã tẩu
Trần thổ hiểu hôn phi)
Hỏi:
- Có tâm có pháp sinh võng thức
Làm sao tâm pháp thảy tiêu vong?
(Hữu pháp, hữu tâm khai võng thức
Như hà tâm pháp đãng câu tiêu)
Đáp:
- Khá vượt cành không cao tít tắp
Lo gì sương tuyết tả tơi bay
(Khả đoạt tùng sao trường uất uất
Khởi ưu sương tuyết lạc phân phân)
Hỏi:
- Ý của Tổ và ý trong kinh sách thế nào?
Đáp:
- Hứng lên xách gậy lên chơi đường núi
Mỏi mệt buông rèm ngủ chõng tre
(Hứng lai huề trượng du vân kính
Khốn tức thùy liêm ngọa trúc sào)
Hỏi:
- Các Tổ truyền cho nhau là truyền cái gì?
Đáp:
- Bụng đói kiếm cơm ăn
Lạnh mình lo áo mặc
Hỏi:
- Người đời phải đi thuê nhà, khi nhà dột thì ở vào đâu?
Đáp:
- Qua vàng cùng thỏ ngọc
Chẳng bợn lo đầy vơi
(Kim ô kiêm ngọc thế
Doanh trắc nạn lao phân)
Hỏi:
- Thế nào là con đường Tào Khê?
Đáp:
- Đáng thương kẻ vạch thuyền(1)
Khắp chốn biết tìm đâu!
(Khả lân khác chu khách
Đáo xứ ý thông thông)
Sư từng soạn sách Dược sư thập nhị nguyện văn. Vua Lý Nhân Tông lấy bản thảo sách ấy đưa cho sử giả nước ta đem sang Trung Quốc để tặng cho vua Triết Tông nhà Tống. Vua Tống trao cho vị pháp sư cao tọa ở chùa Tướng Quốc xem. Pháp sư xem xong chấp tay tâu với vua Tống:
- Ở nước Nam có vị Bồ tát sống đã ra đời, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêm bớt chữ nào.
Vua tống sai chép lại một bản, còn bản chính giao lại cho sứ giả đem về Sứ giả trở về tâu lại sự việc, vua Lý Nhân Tông rất khen ngợi, ban thưởng cho sư rất trọng hậu.
Ngày tháng 9 năm Canh Ngọ niên hiệu Quảng Hựu thứ 6 (1090) sư không bệnh, cho gọi đệ tử đến bảo rằng:
- Thân mình ta đây, xương thịt gân cốt đều do bốn đại hợp thành, tất không thể thường tồn được. Cũng như khi khung nhà đã hư hỏng thì rui, mè đều rơi rụng. Các người hãy trân trọng lời kể của ta đây:
Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy đi.
Dịch:
Thân như tường vách đá lung lay
Lật đật người đời những xót thay
Nếu được “lòng không” không tướng sắc
“Sắc” “không” ẩn hiện mặc vần xoay.

NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)


Đọc kể xong, sư nghiêm trang qua đời, thọ 92 tuổi đời, 56 năm tuổi hạ(1). Sự có các sách: Tán Viên Giác kinh, Thập nhị Bồ Tát Hành tu chứng đạo tràng và Tham đồ hiển quyết, một quyển, lưu hành ở đời.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét