Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014

THIỀN PHÁI PHẬT GIÁO VIÊT NAM

Bài viết của TNH

Đạo Phật có ba tông phái là Tịnh độ tông, thiền tông và mật tông, tuân thủ theo giáo lý chung của Đức Phật là giác ngộ. Đức Phật cho rằng muốn có hạnh phúc thì con người phải thực hành giới, định, tuệ, tứ diệu đế, và bát chính đạo, ngũ trọc. Đây chính là triết lý nguyên thủy về thiền của Phật giáo.
Thiền và hành thiền là quá trình tu học thường xuyên của tu sỹ, thao tác của nó là đưa trạng thái của con người trở về nguyên thuỷ dưới dạng bào thai, xuất thế tuyệt đối, thân tâm bất động, tĩnh lặng, lắng nghe hơi thở, cơ thể thả lỏng hoàn toàn, các cơ quan hoạt động tự nhiên, không cưỡng bức, không điều khiển, nhằn khai mở tiềm năng vô cùng vốn có của con người. Nhận ra mình trong quá khứ, trong hiện tại và tương lai
Đức Phật ngồi dưới gốc một cây Bồ-đề  Bồ Ðề Ðạo Tràng (Bodh Gaya) và nguyện sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ. Sau 49 ngày đã giác ngộ hoàn toàn ở tuổi 35. Từ thời điểm đó, biết mình là Phật, một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh. Bản chất của thiền được đức Phật khái quát lại:
"... Sau khi hoàn lại sinh lực (sau khi tu khổ hạnh vô ích), ta chú tâm giải thoát khỏi những tư tưởng tham ái, bất thiện và đạt được sơ thiền, sau đó nhị thiền, tam thiền và tứ thiền (Tứ thiền), nhưng những cảm giác hỉ lạc này không để lại dấu vết gì trong tâm ta.
Khi tâm ta được an tịnh, thanh lọc, không bị dục vọng cấu uế, nhạy bén, chắc chắn, bất động, ta hướng nó về những kí ức và nhận thức về các kiếp trước. Ta nhớ lại nhiều tiền kiếp, một, hai, ba, bốn, năm,..., trăm ngàn kiếp trước, nhớ những chu kì của thế giới. 'Nơi đó ta đã sống, tên của ta đã như thế, gia đình của ta là như thế, nghề nghiệp của ta, giai cấp xã hội của ta... Ta đã chết như vầy...'. Sự hiểu biết (sa. vidyā, pi. vijjā) đầu tiên này ta đã đạt được trong canh đầu...
Sau đó ta chú tâm đến sự sinh thành và hoại diệt của chúng sinh. Với con mắt của chư thiên, trong sáng, siêu việt mọi giới hạn nhân thế, ta thấy chúng sinh hình thành và tiêu hoại,...chúng sinh tái sinh theo nghiệp lực. Ta nhận ra rằng 'Chúng sinh tạo nghiệp bất thiện qua ba ải thân khẩu ý đều chìm đắm sau khi chết, tái sinh trong đoạ xứ, địa ngục. Các chúng sinh nào tạo thiện nghiệp bằng thân khẩu ý được tái sinh trong thiện đạo, sau khi chết được lên cõi thiên'... Sự hiểu biết thứ hai này ta đã đạt được trong canh hai.
Sau đó ta chú tâm nhận thức về sự tiêu diệt các lậu hoặc (, sa. āsrava, pi. āsava) và nhìn nhận như thật: 'Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là phương pháp tiêu diệt khổ, đây là con đường tiêu diệt khổ', và khi ta nhận thức được điều này, tâm ta thoát khỏi dục vọng, ham muốn tồn tại, vô minh. Ta tự hiểu chân lí 'Tái sinh ta đã đoạn, cuộc sống tu tập của ta đã hoàn tất, ta đã hoàn thành những gì phải làm. Cuộc sống (khổ đau) này ta đã vượt qua'... Sự hiểu biết thứ ba này ta đã đạt được trong canh ba...".
Thiền Phật giáo thường được chia làm ba môn phái chính là Thiền Tiểu thừa, Thiền Ðại thừa và Thiền Tông. Trước khi đi sâu vào chi tiết từng môn Thiền Phật giáo chúng ta nên biết đến những điểm chung về phương pháp tu tập của các môn Thiền là: Chỉ (samatha) và Quán (vipassana). Phương pháp Chỉ dùng để giữ cho thân an tịnh, giữ cho tâm không giong ruổi tán loạn, không buông lung, cũng ví như xích con khỉ cho nó khỏi chạy nhẩy hỗn độn. Phương pháp này có hình thức giống như tập trung tư tưởng của ngoại đạo, nhưng mục đích khác hẳn. Nhiều người vẫn hiểu lầm và cho rằng khi mình để tâm chuyên chú làm một việc và không nghĩ ngợi lăng xăng tức là tu Thiền rồi, thực ra như vậy đó mới là một là một bước đầu của Thiền tức là tu Chỉ. Cũng có những người tập trung tư tưởng để tạo ra những năng lực khác thường, huyền bí mà có khi được coi như thần thông, những người đó chưa phải là tu Thiền. Pháp "Chỉ" chỉ mới là một phần của Thiền Phật giáo. Phần quan trọng chính là pháp Quán. Phương pháp Quán là dùng ý suy nghĩ, quán xét về sự vật, về những vấn đề. Sự khác biệt giữa Phật giáo và ngoại đạo, và ngay cả giữa các pháp môn của Phật giáo chính là ở những phương pháp Quán khác nhau. 
Thiền Nguyên thủy 
Thiền Nguyên thủy căn cứ theo những lời Phật dậy trong các kinh điển nên có rất nhiều phương pháp tu khác nhau. Theo cuốn Phật học phổ thông, khóa thứ V thì có những phương pháp như: Ngũ đình tâm quán, Thập nhứt thế xứ quán, Bát bối xả, Bát thắng xứ quán, Lục diệu pháp môn, Tứ vô lượng tâm, Thập tướng, Thông minh thiền, Siêu việt tam muội v..v.. Tuy vậy có thể nói hiện nay có hai pháp được áp dụng nhiều nhất là Thiền Anapanasati (niệm hơi thở), và thiền Vipassana (quán). 
ThiềnAnapanasati
Pháp Thiền này đặt trọng tâm vào việc hằng chú niệm hơi thở, đã được Phật giảng dậy trong nhiều kinh nhưng riêng kinh Anapanasati chỉ dẫn đầy đủ nhất nên thường được học tập kỹ. Tài liệu sau đây về pháp Thiền này căn cứ theo cuốn "Hành Thiền" của hòa thượng Thích Minh Châu. Hòa thượng đã trình bầy pháp môn này rất đầy đủ, chỉ rõ cách tu đúng thuần túy theo lời Phật dậy. Hòa thượng dịch tên Thiền này là "Thiền niệm hơi thở vô hơi thở ra". Trong khi dịch bộ Samyutta Nikàya (Tương Ưng Bộ kinh) hòa thượng thấy pháp môn Anapanasati được diễn tả trong kinh "Một Pháp" (Tương Ưng, trang 239). Nhận thấy pháp môn này tương đối dễ áp dụng và có nhiều ích lợi nên hòa thượng viết cuốn sách đó để chỉ dẫn. Kinh chỉ rõ trong khi chú niệm theo dõi hơi thở thì khởi quán như sau: 
1. Thở vô dài, tôi biết rõ tôi thở vô dài.
Thở ra dài, tôi biết rõ tôi thở ra dài. 
2. Thở vô ngắn, tôi biết rõ tôi thở vô ngắn.
Thở ra ngắn, tôi biết rõ tôi thở ra ngắn. 
3. Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô.
Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra. 
4. An định thân hành, tôi sẽ thở vô.
An định thân hành, tôi sẽ thở ra. 
5. Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô.
Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra. 
6. Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô.
Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra. 
7. Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô.
Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra. 
8. An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô.
An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra. 
9. Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô.
Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra. 
10. Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô.
Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra. 
11. Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô.
Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra. 
12. Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô.
Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra. 
13. Quán vô thường, tôi sẽ thở vô.
Quán vô thường, tôi sẽ thở ra. 
14. Quán ly tham, tôi sẽ thở vô.
Quán ly tham, tôi sẽ thở ra. 
15. Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô.
Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra. 
16. Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô.
Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra. 
Phương pháp thực hành :
        Phương pháp thực hành Thiền Anapanasati.
Ðiều kiện cần thiết trước hết là phải giữ giới, sống một cuộc đời trong sạch và lành mạnh. Khi sửa soạn hành Thiền cần chọn chỗ thanh vắng, yên tĩnh, xếp đặt nệm ngồi cho thoải mái. Trước khi bắt đầu Thiền, cần quán tưởng việc đoạn trừ năm chướng ngại (ngũ triền cái) (nivaranani), theo trong kinh :
"Vị ấy từ bỏ dục tham ở đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gội rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫu thương xót tất cả chúng hữu tình, gội rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, với tâm hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gội rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối tiếc, tâm trầm lặng, gội rửa tâm hết trạo cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát ly khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gội rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp" (Trung Bộ I) (trích : Hành thiền).
Ðối với người tu Thiền thì năm chướng ngại nói trên: tham dục, sân hận, hôn trầm, hối tiếc và nghi ngờ, là gánh nặng, sự trói buộc, cho nên giải được những chướng ngại đó mới làm vơi nhẹ gánh nặng để đi trên đường Thiền và tâm được định tĩnh. Ðạo Phật thường ví chúng ta như người đang đi mà cứ cõng đá trên lưng, cho nên không thể tiến xa được, muốn đi tới nơi tới chốn thì phải lo bỏ những khối đá trên lưng đi, vì vậy có dẹp trừ được năm chướng ngại đó thì cũng là đã bỏ được một số lượng đá quan trọng rồi.
Sau phần quán tưởng đó thì bắt đầu hành Thiền. Ngồi nghiêm chỉnh và chú ý tới hơi thở là tu theo pháp Chỉ. Cũng nên chú ý là chỉ theo dõi hơi thở để thấy rõ hơi thở ra vào, chứ không phải chú ý để điều khiển hơi thở như khi tập thể dục.
Sau đó suy nghĩ về những đề tài khác nhau là theo pháp Quán. Việc quán về 16 đề tài ghi trên, được coi như quán về bốn phần chính là: quán về thân, về thọ, về tâm và về pháp.
- Quán về thân gồm việc theo dõi hơi thở thấy rõ hơi thở khi ra, khi vào, khi dài, khi ngắn, thấy rõ cảm giác của toàn thân trong khi ngồi, trong khi thở.
- Quán về thọ để thấy rõ khi Thiền có những cảm giác vui, thích, an tịnh.
- Quán về tâm để thấy rõ những biến chuyển về tâm như hân hoan, định tĩnh, thoát khỏi mọi phiền não.
- Quán về pháp để hiểu những lý lẽ về sự vô thường của thân cũng như tâm, về hậu quả của lòng tham nên thấy cần phải trừ diệt và từ bỏ cái tâm mê mờ không thấy rõ con đường chân thật.
Khi mới thực hành thì có thể gặp khó khăn để quán cùng lúc tất cả 16 điều trên, vì vậy nên chọn đề tài nào mà thấy mình thiếu sót nhiều thì chuyên về một đề tài đó trong một thời gian rồi sau đó tiếp tục quán về các đề tài khác. Ích lợi của pháp tu này là trong khi chú tâm vào hơi thở và gạn lọc các tâm tư không thích hợp tức là tu về định, trong khi đó suy tư và quán tưởng về các đề tài là tu về huệ. Theo hòa thượng Thích Minh Châu thì phương pháp này rất hữu ích, vì tương đối dễ tập, ít cần sự chỉ dẫn mà kết quả nhiều. 
Kinh Tứ Niệm Xứ  (Satipatthana Sutta) 
Muốn hiểu rõ hơn về công hiệu của pháp Thiền nói trên thì cần hiểu rõ Satipatthana Sutta, thường được gọi là kinh Niệm Xứ hoặc Tứ Niệm Xứ. Kinh này được coi là căn bản của Thiền Nguyên thủy, dù là Anapanasati hoặc Vipassana. Kinh khá dài nên không thể trình bầy nơi đây. Sati có nghĩa là tâm niệm, chú niệm (mindfulness), còn patthana là căn bản, như vậy kinh này chỉ dẫn về căn bản của sự chú niệm. Chú niệm về bốn đề tài nên cũng được gọi là Tứ Niệm Xứ. Cũng nên chú ý là có năm kinh nói về đề tài Tứ Niệm Xứ : Maha Satipatthana Sutta, Satipatthana Sutta, Satipatthana Samyutta, Augutta Nikaya và Sutta Vibhanga (theo Trevor Ling trong cuốn The Buddha's Philosophy of Man). Vì vậy khi đọc các bài trích dẫn có khi chúng ta thấy cách trình bày hơi khác nhau. Câu mở đầu mà đức Phật nói trong kinh là: "Có một con đường duy nhất để thanh lọc bản thân, diệt trừ phiền não, diệt trừ ưu khổ, đạt tới trí huệ và chứng ngộ Niết Bàn: đó là con đường Tứ Niệm Xứ". Bốn pháp quán niệm được chỉ dẫn ở trong kinh này là: 
- Quán niệm thân trong thân bằng cách quán niệm: hơi thở, vị thế của thân như đang đi, đứng, nằm, ngồi, hoạt động của thân như nhìn, co tay, duỗi chân, mặc áo, ăn, uống, nhai ..., suy nghĩ về tính cách ô trược của thân như nước mắt, nước mũi, đờm, mồ hôi, nước tiểu, phân, mủ ..., suy nghĩ về những thành phần vật chất cấu tạo thân này như đất, nước, gió và lửa, suy tưởng đến chín loại tử thi tan rã. 
- Quán niệm thọ cảm trong thọ cảm: Người tu thấy rõ những thọ: lạc (vui thích), khổ, vô ký (không vui, không khổ) đang diễn tiến trong mình, từ lúc khởi sinh đến lúc hoại diệt. 
- Quán niệm tâm trong tâm: Người tu thấy rõ từng hoạt động của tâm mình, như đang : tham, giận, si, hôn trầm, loạn động, cao thượng, không cao thượng, định, giải thoát... Người tu thấy rõ tiến trình của mỗi hoạt động của tâm, từ lúc khởi sinh đến lúc hoại diệt. 
 -Quán niệm pháp trong pháp, gồm quán các pháp (đối tượng của tâm) như :
1. Quán về năm chướng ngại tinh thần (ngũ triền cái hoặc ngũ cái): tham dục, sân hận, hôn trầm, lo âu (trạo cử) và hoài nghi. 
 2. Quán ngũ uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Người tu thấy rõ sự khởi sinh và hoại diệt của từng uẩn. 
3. Quán sáu căn (mắt, tai, mũi lưỡi, thân và ý) cùng đối tượng của sáu căn là sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp). Người tu thấy rõ khi căn tiếp xúc với trần đã tạo ra những ràng buộc, cũng thấy rõ sự ràng buộc đã phát sinh và sau đó diệt như thế nào. 
4. Quán về bẩy yếu tố ngộ đạo (thất giác chi) như: chánh niệm, trạch pháp (phân biệt đúng, sai), tinh tấn, hỷ, an, định và xả. 
5. Quán về tứ diệu đế (bốn chân lý thâm diệu) là khổ, tập (nguyên nhân tạo khổ), diệt (sự chấm dứt khổ) và đạo (con đường đưa đến chấm dứt sự khổ). 
Kinh nói rõ là người nào tu theo pháp Tứ Niệm Xứ sẽ đạt đạo quả A La Hán (Chánh trí) ngay trong kiếp này, hoặc ít ra cũng đạt được đạo quả A Na Hàm (Bất lai). Cũng nên chú ý là pháp Anapanassati cũng là một phần trong kinh này, thuộc về phần quán thân. Theo pháp tu này thì việc chú niệm (mindfulness) rất quan trọng, có đạt được chú niệm thì việc quán mới có thể đi đến kết quả tốt đẹp. 
Chú niệm là giữ cho tâm không buông lung, chăm chú hướng sự thấy biết của mình vào thân và tâm của mình để đạt được sự hiểu biết chân chính và minh mẫn. Ðiều cần là lúc nào cũng phải chú ý thấy rõ mọi hoạt động của thân, của tâm, thấy rõ thân đang làm gì: nhìn, nói, ăn, nhai, ngồi, đi, đứng ... thấy rõ mỗi trạng thái của tâm: vui, buồn, giận dữ, chán nản, buông lung, tĩnh lặng, thanh thản, hôn trầm ... Chú ý để thấy, như đang nghiên cứu một hiện tượng khoa học mà không có ý niệm phân biệt, phán xét phải trái. Thí dụ như khi đang nóng giận, thường thì chúng ta không bao giờ thấy mình đang nóng giận, vì lúc đó tâm trí đang bị cơn giận xâm chiếm, đầu nóng bừng, mặt đỏ, trợn mắt, nghiến răng ... Nhưng nếu biết chú niệm thì thấy rõ có "sự nóng giận" mà không thấy cái nóng giận đó là mình, sẽ bình tĩnh nhận xét cơn giận nổi lên, tồn tại và tan biến như thế nào, mà không có phân tách tại sao lại giận, giận như vậy là phải hay trái. Một câu thường được nhắc nhiều lần trong kinh này là : (thí dụ phần quán cảm thọ) "Với sự thấy biết. chú niệm thấy 'Có một cảm thọ' một cách vừa đủ để biết và ghi nhớ thôi. Và như vậy người tu trở thành tự chủ, không còn bị ràng buộc vào cái gì trên thế gian này nữa ". Ðiểm chánh yếu là người tu chỉ dùng sự thấy biết một cách đơn thuần, thấy rõ mọi sự một cách rõ ràng nhưng không có phán xét, suy luận. Người tu biết vì do một duyên cớ bên ngoài nên một cảm thọ đã hình thành, cảm thọ đó tồn tại trong một thời gian và sẽ tự biến mất, nó không có một thực thể mà chỉ do hoàn cảnh tạo ra, và người tu không còn muốn chạy theo nó, hoặc bị nó chi phối nữa. Cứ như vậy chúng ta phải thường xuyên chú niệm không ngừng những gì đang diễn tiến tại thân và tại tâm ta. Chính sự "thấy biết một cách đơn thuần" (bare awareness) là trọng tâm của pháp tu này, nó giúp cho ta hiểu và thấy rõ cái tính chất của thân và tâm mình thực sự là gì, hoạt động thế nào, để thấy được lý vô thường của chúng và không còn bị chúng ràng buộc, chi phối nữa, và cũng thấy không có một cái "ngã" mà thường được gọi là cái "ta". 
Thiền Vipassana
Vipassana có nghĩa là quán, nên Thiền Vipassana (Insight Meditation) còn được gọi là Thiền Quán hoặc Thiền Minh Sát hoặc phiên âm là Tỳ bà xá na. Pháp Thiền này không được ghi rõ trong riêng kinh nào mà đặt nền tảng trọn vẹn trên kinh Tứ Niệm Xứ. Như trên đã trình bầy, kinh này rất cao sâu, bao gồm những đề tài rộng lớn, tổng quát nên việc thực hành có phần khó khăn, cho nên sau này có những pháp thực dụng dễ thực hành được đề ra như Thiền Vipassana. 
Không có tài liệu ghi rõ Thiền này khởi đầu từ bao giờ, chỉ biết là Thiền Vipassana xuất hiện từ đầu thế kỷ này tại Miến Ðiện, và hiện nay phát triển rất mạnh tại các nước tu theo Tiểu thừa như Miến Ðiện, Thái Lan, Sri Lanka ... Ngay tại Mỹ đã có rất nhiều trung tâm dạy tu theo pháp này. Về phương pháp hành Thiền Vipassana có nhiều sách của các vị tăng Miến Ðiện, Thái Lan viết để chỉ dẫn phương pháp tu. Theo phương pháp của vị tăng Miến Ðiện nổi tiếng là Mahasi Sayadaw, lúc mới khởi tu nên quán về thân, và quán về hơi thở ở bụng, chú niệm vào bụng khi hơi thở vào, thấy bụng phồng lên, hành giả niệm "Phồng", khi hơi thở ra, bụng xẹp xuống thì niệm "Xẹp". Ðó là để chú ý tới cảm giác nơi thân do cử động của bụng, chứ không phải là chú ý tới hình dáng của bụng. Phương pháp đó giúp cho người mới tu dễ tập trung sự chú ý. Trong khi đang theo dõi hơi thở mà bỗng dưng cô ý nghĩ nào hiện tới thì niệm "Suy nghĩ", cho tới khi nào ý nghĩ đó tan mất thì trở lại niệm " Phồng", "Xẹp". Nếu khát nước niệm "Khát", muốn đứng dậy đi uống nước, niệm "Muốn", khi bước đi niệm "Bước", bước chân trái niệm "Trái", chân mặt niệm "Mặt". Nếu ngồi hoặc nằm lâu mà thấy mỏi, đau, ngứa chỗ nào đó thì hướng về chỗ đó và niệm "Mỏi", Ðau" hoặc "Ngứa".
Phương pháp mới nghe lần đầu thì có vẻ kỳ lạ, nhưng nếu đã hiểu về kinh Niệm Xứ thì thấy đó là một phương pháp áp dụng rất đúng việc chú niệm để quán về thân, thọ, tâm và pháp. Trong khi Anapanasati chỉ cột tâm bằng cách theo dõi hơi thở thì Vipassana theo dõi chẳng những hơi thở mà tất cả hoạt động của toàn thân, của mọi cảm thọ, cùng những hoạt động của tâm và những đối tượng của tâm, như vậy tức thấy rõ toàn diện con người về hai phương diện thân và tâm. Vipassana được áp dụng không phải chỉ khi ngồi Thiền mà bất cứ lúc nào như đi, đứng, nằm, ngồi, ngay khi đang hoạt động bình thường như ăn, uống, nghe, nói ... 
Nhưng như trên đã trình bày, phương pháp của Thiền Vipassana không được chỉ rõ trong kinh, nên tuy mục đích chánh là áp dụng kinh Tứ Niệm Xứ nhưng về phương pháp áp dụng có những điểm khác nhau, không có một pháp Thiền Vipassana thống nhất. Từ kinh Tứ Niệm Xứ các vị tăng Miến Ðiện đã sáng suốt tìm ra phương pháp thực hành theo đúng những lời dậy trong kinh. Sau đó các vị tăng khác cũng nương theo đó mà tu hành và hiện nay pháp Thiền này đã được rất nhiều nơi áp dụng. Cuộc đời và những bài giảng của các vị tăng Miến Ðiện và Thái Lan nổi tiếng như Mahasi Sayadaw, Sunlun Sayadaw, Taungpulu Sayadaw, U Ba Khin, Ajahn Chah, Ajahn Buddhadasa ... được ghi rõ trong cuốn "Living Buddhist Masters" của Jack Kornfield. Thiền này vượt hơn Thiền Anapanasatti vì lẽ dễ hiểu là pháp niệm hơi thở chi là một phần nhỏ trong kinh Tứ Niệm Xứ.
Nếu chúng ta muốn tu theo Thiền Vipassana thì trước hết nên tìm hiểu kỹ kinh Tứ Niệm Xứ thì khi tu sẽ tiến mau hơn và sau nữa là để tránh xa những người tự cho mình là có tài siêu việt và ưa sửa đổi đường lối mà đức Phật đã dạy trong kinh. (Ngoài ra cũng xin trình bày là phải dùng các danh từ bằng tiếng Sanskrit hoặc Pali trên đây vì nhiều tác giả tùy theo ý riêng đã dịch ra tiếng Việt bằng những danh từ khác nhau nên khó biết dùng danh từ nào cho đúng. Hiện nay nhiều sách Anh ngữ về Thiền cũng thường dùng tiếng Phạn nên xin ghi thêm để giúp quý độc giả khi muốn đọc những sách đó.) 
Tu sỹ hành thiền có thể đạt được thành tựu ở các cảnh giới khác nhau tuỳ theo năng lực, môi trường sống, của từng cá nhân mà sinh ra các dòng phái thiền tại Việt Nam, và thế giới
Phật giáo đến việt nam vào thế kỷ thứ 2 do thiền sư Ấn Độ Khâu Đà Na và Kỳ Vực hoằng Pháp tại Thành Luy Lâu, Giao Chỉ. Cùng với tín ngưỡng bản địa thờ các vị thần thiên nhiên Mây, Mưa, Sấm, Chớp và trở thành quốc giáo. Pháp Vân trở thành Phật tổ của Việt Nam cùng với Phật tổ mẫu Man Lương.
1.     Khâu Đà La là (189 - ?)
Thiền tổ của Việt nam, được khẳng định tại khoa cúng tứ Thánh chùa Dâu, Thuận Thành Bắc Ninh:
Nam mô Trúc càn Bà La Môn Tịnh hạnh trưởng Khâu Đà La tổ sư thuyền tọa hạ”   
Phương pháp hành thiền của Khấu Đà La, là sự hòa hợp của thân, khẩu, ý. Tức là niệm thở.
Thiết dĩ pháp thân bất động
Phàm hữu cảm dĩ giai thông
Thánh nhỡn phi dao cố hà
Cầu nhi bất ứng dục đạt
Thập phương tri tín
Tu bằng ngũ phận tri hương
Thị hương dã phúc căn trưởng tựu tâm
Địa tài bồi phần thời thụy khí
Nhiệt kim lô tán sứ tường vân
Phi ngọc điện nhất lũ tri hàn yên
Tài khởi thập phương tri hiển Thánh
Giao chi huân lai giới, định, tuệ hương
Phả hiến thượng trung hạ giới
Như Lai giáo hữu nhiên hương
Chân ngôn cẩn đương trì tụng
Giới hương, định hương, dữ tuệ hương
Giải thoát, giải thoát tri kiến hương…
……thanh tịnh tu bằng pháp thủy chi công, bảo đỉnh nhân huân vưu tịch danh hương tri lực, nhân đạo năng thông phật đạo, Thánh tâm hà nhi, phàm tâm thủy trừng nguyệt hiện dĩ vô tư cốc ứng thanh hà nhi bất cách giáo hữu phụng thỉnh chân ngôn …
Truyền nhân của dòng thiền này không ai khác chính là Phật tổ Mẫu A Man Lương, ngoài Man Lương, còn có cha là Tu Định, Mâu tử và chắc chắn sẽ còn ai đó, nhưng cho đến nay chúng ta vẫn chưa khảo chứng được, các tư liệu còn lại quá ít, chỉ ít nhiều hiểu được nó qua các khoa cúng tổ, thần tích, ván in kinh, sắc phong, và bia đá. Tác phẩm Mâu tử lý và luận
2.     Khương Tăng Hội (?- 280)
Khương Tăng Hội theo các nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo, có cha là người Ấn, mẹ là người Giao chỉ, sinh ra và lớn lên tại Giao Chỉ, sau đó sinh sống và qua lại nhiều ở Ấn Độ và Trung Quốc, trong khoảng đầu đến giữa thế kỷ 3.
Khương Tăng Hội được coi là đặt nền móng cho Thiền học Việt và góp phần phát huy Thiền học ở Trung Quốc. Theo các nhà nghiên cứu, Khương Tăng Hội đã trước tác và hành đạo tại Luy Lâu, trung tâm Phật giáo của Giao Châu.
Bộ tác phẩm quan trọng nhất được biết đến hiện nay của Khương Tăng Hội là Lục độ tập kinh. Theo Lê Mạnh Thát, Lục độ tập kinh được dịch từ tiếng Việt ra tiếng Hán, như vậy, hoạt động học thuật về Phật giáo đã có cơ sở vững chắc và có yếu tố bản địa. Theo Nguyễn Lang, Lục độ tập kinh “không phải dịch từ Phạn ngữ” và “có những đoạn hoàn toàn do Khương Tăng Hội viết”.
Ngoài Lục độ tập kinh, tác phẩm quan trọng cho thấy tư tưởng Thiền của Khương Tăng Hội là “An Ba thủ ý”, diễn giải phép hành Thiền theo ảnh hưởng sâu đậm của giáo lý “không” và “chân như” của đại thừa. Theo Nguyễn Lang, Tăng Hội đã thực sự khơi mở cho Thiền học đại thừa bằng cách nói “tâm như uyên nguyên và chân như của vạn pháp”.
Thiền sư Việt Nam  tiểu biểu trong gia đoạn này là  Đạo Cao, Pháp Minh
3.      Tỳ Ni Đa Lưu Chi
Thời gian ở Việt Nam (580-594)
Hành trạng Tỳ Ni Đa Lưu Chi được nói đến ở sách “Thiền uyển tập anh”, ông “gốc ở Nam Thiên Trúc, vân du qua Trung Hoa; năm Nhâm ngọ (562) niên hiệu Đại Kiến thứ sáu nhà Trần đến Trường An.
Vào năm 574 sau khi Phật giáo bị Võ Đế đàn áp, ông đi về đất Nghiệp (Hồ Nam). Hồi đó, tổ thứ ba của Thiền tông Trung Hoa là Tăng Xán đang bị nạn ở đây, ẩn tại núi Tư Không” thì Tỳ Ni Đa Lưu Chi yết kiến Tăng Xán và được Tăng Xán khuyên mau mau đì về phương Nam”, ông liền đến Quảng Châu và vào Giao Châu năm 580, ở tại Pháp Vân Tự, tức chùa Dâu thuộc Luy Lâu.
Tỳ Ni Đa Lưu Chi chọn Pháp Hiền, Sùng Phạm cũng ở chùa Dâu làm đệ tử, lập nên dòng Thiền mang tên mình. Theo các nhà nghiên cứu, dòng Thiền này truyền được 19 đời, từ năm 580 đến 1213.
Đệ nhất đại đệ tử là Pháp Hiền
·         Pháp Hiền, Huệ Nghiêm, Thanh Biện
·         Định Không, Đinh La Quý, Vô Ngại
·         Pháp Thuận, Thiền Ông, Sùng Phạm
·         Ma Ha, Pháp Bảo, Vạn Hạnh
·         Định Huệ, Đạo Hạnh, Trì Bát
·         Thuần Chân, Đạo Pháp, Huệ Sinh
·         Minh Không, Bản Tịch, Thiền Nham
·         Quảng Phúc, Khánh Hỉ, Giới Không
·         Pháp Dung, Thảo Nhất, Trí Thiền
·         Đạo Lâm, Chân Không, Tịnh Thiền
·         Diệu Nhân, Viên Học, Viên Thông
·         Y Sơn
Tư tưởng Thiền học Tỳ Ni Đa Lưu Chi chịu ảnh hưởng của Tăng Xán, bắt nguồn từ tư tưởng Bát Nhã, Hoa Nghiêm, trong đó có sự tiếp thu và giao thoa của các yếu tố Mật giáo Ấn Độ và coi “tâm ấn” như là một tinh hoa của giáo pháp đại thừa.
Thiền học Tỳ Ni Đa Lưu Chi bắt rễ vào mảnh đất Giao Châu như một hạnh duyên tỏ ra khá hoà đồng với tín ngưỡng bản địa, vốn là nơi dân cư đa thần giáo.
Trong khi diễn tả tư tưởng Thiền, hành pháp của phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi sử dụng sấm vĩ, thuật phong thuỷ và các yếu tố bản địa khác để hoằng dương Phật pháp, khuyến khích nhập thế ít ảnh hưởng Mật giáo Trung Hoa, qua đó ý thức dân tộc được tô đậm.
Theo Nguyễn Lang, “đây là một Thiền phái rất có tính cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật giáo vừa biểu lộ dược đời sống thực tế và đơn giản của quần chúng nghèo khổ”
4.      Vô Ngôn Thông
Thời gian ở Việt Nam (759-826)
Vô Ngôn Thông người Quảng Châu, họ Trịnh, xuất gia tu học tại chùa Song Lâm ở Vũ Châu. Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 15 đường Đường (820). Vô Ngôn Thông đến Việt Nam, ở lại chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, nay thuộc Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.
Vô Ngôn Thông thường thiền tọa, xây mặt vào vách, không nói năng gì. Nhiều năm trôi qua như thế, ít ai để ý, chỉ có sư Lập Đức tiếp nhận được tông chỉ màu nhiệm của Vô Ngôn Thông, được đổi tên là Cảm Thành và được truyền cho tâm pháp. Vô Ngôn Thông tịch vào năm 826; thời gian cư trú tại chùa Kiến Sơ chỉ có 6 năm.
Thiền phái Vô Ngôn Thông truyền được 17 đời, đến đầu thế kỷ 13.
·         Cảm Thành, Thiện Hội, Vân Phong
·         Khuông Việt, Đa Bảo, Định Hương
·         Thiền Lão, Viên Chiếu, Cứu Chỉ
·         Bảo Tính, Minh Tâm, Quảng Trí
·         Lý Thái Tông, Thông Biện, Đa Vân
·         Mãn Giác, Ngộ Ấn, Biện Tài
·         Đạo Huệ, Bảo Giám, Không Lộ
·         Bản Tịnh, Bảo Giác, Viên Trí
·         Giác Hải, Trí Thiền, Tịnh Giới
·         Tịnh Không, Đại Xả, Tín Học
·         Trường Nguyên, Tĩnh Lực, Trí Bảo
·         Trí Thông, Thần Nghi, Thông Thiền
·         Hiện Quang, Tức Lự, Ứng Thuận
Tư tưởng Thiền của Vô Ngôn Thông ảnh hưởng Phật giáo Trung Hoa sâu đậm hơn Tỳ Ni Đa Lưu Chi, biểu hiện ở việc tổ chức tu viện, sử dụng thoại đầu và đặc biệt là ảnh hưởng Tịnh Độ Giáo.
Kinh điển của Thiền Vô Ngôn Thông không chỉ là bộ Bát Nhã, mà còn nhiều bộ khác như Viên Giác, Pháp Hoa, nhấn mạnh giáo pháp “vô đắc” và “đốn ngộ”.
Nói cách khác, Thiền Vô Ngôn Thông khuyến khích các biện pháp tu chứng, tự cá nhân nhận thức thế giới bằng thiền định (vô đắc), đạt ngộ thì Tâm là Phật, Pháp cũng là Phật (đốn ngộ).
Do nguyên tắc “vô đắc” và giáo pháp “đốn ngộ” mà các thiền sư Vô Ngôn Thông coi trọng thực tế, nhập thế, có ảnh hưởng lớn đến xã hội.
5.     Thảo Đường
Thời gian ở Việt Nam (1069- ?)  viên tịch ở tuổi 50
Thảo Đường vốn là một nhà sư Trung Hoa tu ở Chiêm Thành, trở thành tù binh trong cuộc chinh phạt Chiêm Thành của vua Lý Thánh Tông vào năm 1069. Khi bị bắt về Đại Việt, do duyên kỳ ngộ mà Thảo Đường được vua Lý Thánh Tông phát hiện, trọng dụng, cho trụ trì chùa Khai Quốc, phong là Quốc sư, lập nên một dòng Thiền mang tên ông và chính vua Lý Thánh Tông là tổ thứ 2.
Thảo Đường là đệ tử Tuyết Đậu, một Thiền phái Trung Hoa, thuộc dòng Vân Môn. Thiền phái Tuyết Đậu có đặc điểm bác học, chuộng thi ca, dung hợp Nho giáo và Phật giáo. Do khuynh hướng đó, tư tưởng Thảo Đường tỏ ra hợp thời, khi mà thời Lý đạo Phật khá phát triển và đang có nhu cầu bắt rễ vào những Phật tử thuộc tầng lớp nho sĩ.
Theo “Thiền uyển tập anh”, có 6 thế hệ Thảo Đường (1069 - 1205), bao gồm 19 người được tôn là tổ, trong đó chỉ có 10 vị xuất gia, còn 9 vị là cư sĩ, phần lớn là vua quan.
·         Thế hệ 1: Thảo đường.
·         Thế hệ 2: ba người: Lý Thánh Tông, Bát Nhã, Ngộ Xá.
·         Thế hệ 3: bốn người: Ngô Ích, Thiệu Minh, Không Lộ, Ðịnh Giác.
·         Thế hệ 4: bốn người: Ðỗ Vũ, Phạm Âm, Lý Anh Tông, Ðỗ Ðô.
·         Thế hệ 5: ba người: Trương Tam Tạng, Chân Huyền, Ðỗ Thường.
·         Thế hệ 6: bốn người: Hải Tịnh, Lý Cao Tông, Nguyễn Thức, Phạm Phụng Ngự.
Thảo Đường được đánh giá là dòng Thiền có khuynh hướng bác học, cầu nối quan trọng để dẫn đến sự ra đời của dòng Thiền thuần tuý Việt Nam là Trúc Lâm sau này.
6.      Trúc Lâm
Tổ thứ nhất lập nên Thiên phát Trúc Lâm là vua Trần Nhân Tông, sau khi nhường ngôi thì lên núi Yên Tử, tu tại chùa Hoa Yên từ năm 1299.
Theo các nhà nghiên cứu, vua Trần Nhân Tông vốn được sư Huệ Tuệ trao truyền giới pháp. Huệ Tuệ là tổ thứ 5 của sơn môn Yên Tử, một dòng Thiền có tư tưởng bản địa, có ảnh hưởng của dòng Lâm Tế Trung Hoa, có những vị thiền sư nổi tiếng như vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ.
 Vua Trần Nhân Tông đã đưa sơn môn Yên Tử thành trung tâm Phật giáo, khai mở một dòng Thiền mới “thuần Việt” và trở thành người lãnh đạo “Giáo hội” đầu tiên của Việt Nam.
Tư tưởng của Trúc Lâm là hành đạo giúp đời, đưa đạo đến đời, mọi giáo pháp đều xuất phát từ khuynh hướng “nhập thế”. Do vậy, thực tại cuộc sống là một yếu tố cấu thành giáo pháp, dẫn đến việc hoằng dương Phật pháp trước tiên phải tôn trọng thực tế cuộc sống với đặc điểm dân tộc, làm cho dân tộc trường tồn.
Người được vua Trần Nhân Tông tôn là thày, chính là Tuệ Trung Thượng Sĩ, đã cho rằng hình thức xuất gia và tại gia đã trở thành không quan trọng, đó là nguyên tắc “hoà quang đồng trần”, một danh từ của Lão Giáo mà giới Phật tử đã dùng để diễn tả thái độ dấn thân và hòa mình của các vị bồ tát trong cuộc đời để phụng sự, tiếp nối tư tưởng “Phật tại Tâm” mà nhà vua Trần Thái Tông đã anh hội từ chính các vị tổ của Trúc Lâm Yên Tử.
Về phương diện lịch sử tư tưởng, Thiền phái Trúc Lâm có tầm quan trọng đặc biệt đến sự phát triển tư tưởng dân tộc Việt. Trên nền tảng tư tưởng của những Thiền phái Phật giáo đã có từ trước như Khâu Đà La, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường, có tiếp thu các Thiền phái Trung Hoa, đặc biệt là Lâm Tế (với biện pháp hành thiền quyết liệt), Thiền phái Trúc Lâm đã tổng hoà những tư tưởng đó, nâng cao về phương diện bác học, đưa Thiền học vào cuộc sống bằng cách coi trọng yếu tố thực tiễn Việt Nam.
Các tác phẩm cơ sở của Thiền học Trúc Lâm như Khoá hư lục, Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục đã diễn tả tư tưởng và giáo pháp đó.
Thiền sư Trúc Lâm đi thẳng vào thế giới thực chứng bằng cách tháo bỏ mọi hàng rào khái niệm, đó thực sự là biện pháp đốn ngộ mà Vô Ngôn Thông đã nhắc đến, nhưng nhấn mạnh đến yếu tố “tâm”, phá bỏ những ảo tưởng, khuyến thiện bằng cách lấy cá nhân và đời sống thực tại làm trọng. Chính vì vậy, Trúc Lâm thiền phái đã góp phần xây dựng triều đại đương thời, tổ chức xã hội, bồi đắp nhân cách Đại Việt.
Thiền phái Trúc Lâm truyền được 3 đời, sau vua Trần Nhân Tông, đến Pháp Loa, rồi đến Huyền Quang, rồi bị ngắt quãng cùng với thời kỳ Phật giáo suy vi, Nho giáo thống trị xã hội Đại Việt.
Khoảng thời Lê Trung Hưng, có phong trào phục hưng Thiền phái Trúc Lâm, do điều kiện xã hội Nho giáo suy yếu, song nền tảng cơ sở không đủ đưa Trúc Lâm trở lại những ngày rực rỡ như thời thế kỷ 14.
·         Chí Nhàn, Ứng Thuận, Tiêu Dao
·         Trần Nhân Tông, Thạch Kim
·         Pháp Loa, Hương Sơn, Pháp Cổ
·         Huyền Quang, Cảnh Huy, Quế Đường
Đến giữa thế kỷ 20, cùng với phong trào chấn hưng Phật giáo, nhiều vị Thiền sư có ý tái lập Thiền Trúc Lâm, nhưng đây còn là vấn đề học thuật đang tranh luận.
7.     Một số dòng phái thiền trong phong quá trình phục hưng thiền thời kỳ Lê Nguyễn  
7.1. Thiền phái Lâm Tế đến Việt Nam và thiền sư Chuyết Chuyết Lý Thiên Tộ
Thiền sư Chuyết Chuyết tên Thiên Tộ, họ Lý, pháp danh là Hải Trừng, pháp hiệu là Viên Văn, thường được gọi là Chuyết Công, sinh năm 1590, tại quận Thanh Chương thuộc tỉnh Phúc Kiến. Năm 1630, ông rời Trung Hoa đến đất Cao Miên, qua Chiêm Thành sang Đại Việt, đến năm 1633, tới được kinh thành Thăng Long, ông và đệ tử ở lại chùa Khán Sơn và bắt đầu giảng dạy Phật pháp.
Sau khi hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và công chúa Trịnh Thị Ngọc Duyên xuất gia tại chùa Phật Tích, chúa Trịnh Tráng bắt đầu cho trùng tu lại chùa Ninh Phúc ở Bút Tháp. Khi việc trùng tu hoàn tất, Chuyết Chuyết được mời sang trụ trì chùa Ninh Phước cho đến khi viên tịch. Hiện nay pho tượng nhục thân tại chùa Phật tích được cho là của Thiền sư Chuyết Chuyết.
Ông thuộc thế hệ thứ 34, dòng Lâm Tế ở Trung Quốc, truyền bá Thiền phái này ở Đại Việt. Điều đặc biệt của dòng Lâm Tế là hành pháp theo “tứ liệu giản”; công thức phân biệt và chọn lựa từng cấp bậc nhận thức nhìn theo chủ thể và khách thể.
7.2. Các thiền sư phái Lâm Tế Đàng Trong và môn phái Liễu Quán
Sau thời kỳ Nguyễn Hoàng cai trị phương Nam, từ đầu thế kỷ 17, hình thành trung tâm Phật giáo ở Thuận Hoá. Cùng với việc hùng cứ phương Nam, chống lại ảnh hưởng ngoại lai của các giáo sĩ phương Tây, các chúa Nguyễn chú ý phát triển Phật giáo nên mời nhiều cao tăng Trung Hoa sang Đàng Trong.
Phần lớn các thiền sư thuộc phái Lâm Tế đã trụ trì nhiều chùa quanh khu vực Thuận Hoá, trong đó có Thiền sư Viên Cảnh, Viên Chiếu, Nguyên Thiều... và nhiều Thiền sư khác, dẫn tới ra đời môn phái Liễu Quán.
Liễu Quán vốn là người làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, sinh năm 1670 trong một gia đình nghèo vào chùa từ năm 12  tuổi. Năm 1697, ông học Phật tại Thuận Hoá và sau nhiều năm chiêm bái các tổ đình khác nhau, cuối cùng năm 42 tuổi được Thiền sư Tử Dung nhận làm đồ đệ và hành đạo tại nhiều đạo tràng ở Thuận Hoá và Phú Yên. Ông mất năm 1742.
Theo các nhà nghiên cứu, Liễu Quán đã có công “Việt hoá” Thiền học Lâm Tế, để nó có màu sắc Việt Nam. Trước Liễu Quán, các đạo tràng Đàng Trong nhuôm màu Quảng Đông do các Thiền sư đến từ vùng Lưỡng Quảng Trung Quốc. Sau Liễu Quán, Lâm Tế chỉ còn học thuật phần hành đạo đã hoàn toàn mang tính bản địa; lấy yêu tố Việt để hoàng dương Phật pháp.
7.3. Thiền phái Tào Động ở Việt Nam
Tào Động từ Trung Hoa du nhập vào Việt Nam theo Thiền sư Thủy Nguyệt hiệu là Tông Giác, sinh năm 1936, quê làng Thanh Triều, ở Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình. Sau khi du học ở Trung Hoa, ông cư trú tại chùa Vọng Lão ở núi An Sơn, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương và hoằng dương Phật pháp, có nhiều đệ tử, Phật tử.
Theo Nguyễn Lang, ở Đàng Trong Đại Việt, người đầu tiên truyền bá thiền Tào Động là thiền sư Hưng Liên, lập đạo tràng ở chùa Tam Thai Quảng Nam và được tôn làm quốc sư. Sau đó, Thiền sư Thạch Liêm từ Quảng Đông được chúa Nguyễn Phúc Trăn mời sang chùa Thiền Lâm, truyền Thiền phái Tào Động.
Tư tưởng Thiền của Thạch Liêm tiêu biểu của dòng Tào Động hành đạo Thiền Tịnh song tu, phối hợp Thiền định và Tịnh độ, đưa giáo pháp đến quảng đại quần chúng. Càng về sau, Tào Động càng đi gần với Lâm Tế ở Đàng Trong, hình thành xu hướng Lâm Tào song hợp ở các đạo tràng.
7.4 Chân Nguyên phục hưng Thiền phái Trúc Lâm ở Đàng Ngoài
Thiền sư Chân Nguyên họ Nguyễn tên Nghiêm, quê ở làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, sinh năm 1646, xuất gia năm 19 tuổi, học với thiền sư Chân Trú tại chùa Hoa Yên, được pháp danh là Tuệ Đăng.
Ông được truyền thừa y bát Trúc Lâm, làm trụ trì chùa Long Động và Quỳnh Lâm. Tư tưởng Thiền của Chân Nguyên lấy cơ sở là phát xuất trực tiếp từ kinh nghiệm về tự tính.
Theo Nguyễn Lang, “về phương diện phương pháp hành đạo, Chân Nguyên chủ trương rằng chìa khóa của sư đạt đạo là nuôi sáng ý thức mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên”, nguồn gốc chân thật của mình. Ý thức được như vậy thì mọi ý nghĩ, mọi hành động của ta tự nhiên đi vào con đường giác ngộ, và không cử chỉ nào của ta mà không phải là mầu nhiệm thần thông: mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nêm, thân xúc và ý nghĩ. Đó là sự “vận dụng của lục căn” trên căn bản ý thức về tự tính giác ngộ”.
Chân Nguyên tịch năm 80 tuổi. Điều đóng góp quan trọng của Chân Nguyên là cổ suý phong trào học thuật, dịch và san định nhiều bộ kinh, tác phẩm Phật học, trong đó phần lớn những tác phẩm ấy còn đến ngày nay.
7.5. Hương Hải đưa Phật pháp vào đời sống
Thiền sư Hương Hải người làng Áng Độ huyện Chân Phúc (sau đổi là Chân Lộc rồi Nghi Lộc) tỉnh Nghệ An, tổ 4 đời theo chúa Nguyễn vào Đàng Trong, đến ông thì ngụ tại Phủ Thăng Bình (Quảng Nam). Sau nhiều năm tu hành, ông được chúa Nguyễn vời vào cung, sau bị vu cáo, ông bèn trốn ra Bắc năm 1683, năm đó ông 56 tuổi, cuối đời trụ trì chùa Xích Đằng, Kim Động, nay thuộc thành phố Hưng Yên.
Tư tưởng Thiền học của Hương Hải thiền sư là nhập thế, tiếp tục chủ trương lớn của Trúc Lâm nhưng theo giáo pháp mới, trong đó nhận thức luận của ông là đưa Phật đến chúng sinh, liên hệ tâm và cảnh, mê và ngộ, thiện và ác.
          Thiền trong Phật giáo ở Việt Nam giữ một vai trò cực kỳ quan trọng thúc đẩy Phật giáo phát triển, trong cả hoằng pháp và hành pháp.
 Không phân biệt tôn giáo, quốc gia, dân tộc, thiền đem lại cho mỗi cá nhân nguồn sức mạnh, một lý trí, kiểm soát hành vi, tư tưởng trong sáng, mẫu mực. trí tuệ mẫn tiệp. chính vì vậy nó tồn tại đến ngày nay. Mục đích của con người trên thế gian này là hạnh phúc.
Thiền nguyên thuỷ, các thiền sư phải tự khẳng định mình với quan điểm Phật giáo quyền năng, để thu nạp phật tử, xây dựng tự viện.
Thiền Tỳ Ni Đa lưu Chi thiền gắn với quan điểm mật tông , gia đoạn này gọi là thiền mật song tu
Thiền Thảo đường là dòng thiền Bác học chủ yếu dành cho tầng lớp quý tộc và giai cấp thống trị, thành tựu của dòng thiền này là đưa Phật giáo nhập thế.
Thiền trúc lâm kết hợp được tinh tuý của các dòng thiền trên, biến nó trở thành nét đặc sắc của riêng mình
Thiền lâm tế và tào động kết hợp giữa thiền và tịnh độ ta có thể gọi là thiền tịnh song tu
Thiền đã, đang và sẽ đóng vai trò như một sứ giả để quy đồng tôn giáo, quy đồng văn hoá , quy đồng nhận thức, quy đồng môi trường, góp phần đưa thế giới đến đại đồng, ít nhất là trên góc độ văn hoá
Sau 2000 năm tồn tại và phát triển, Thiền nói riêng và Phật giáo nói chung là ý chí văn hoá của dân tộc, là tinh thần bất khuất của dân tộc, là sức mạnh dân tộc, luôn vượt qua mọi thách thức, trở ngại, 1000 năm tự trị phụ thuộc, 100 năm Pháp hộ, Chia cắt Đàng trong, Đàng ngoài, chia cắt Nam Bắc. Thiền và Phật giáo luôn là chỗ dựa tinh thần để con dân nước Việt chiến thắng và đi đến hạnh phúc.
Chúng ta hãy tự hỏi mình Thiền là gì, Thiền để làm gì, và Thiền như thế nào, rồi tìm kiếm, học hỏi, thực hành, tức là chúng ta bước những bước đầu tiên trên con đường giải thoát.
Nam Mô A Di Đà Phật


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét