TÓM TẮT NỘI DUNG KHẢO CỨU
BIA ĐÁ PHU THÊ “HẬU PHẬT TƯỢNG”
CHÙA TỪ BI THÔN YÊN NHO
CHÙA TỪ BI THÔN YÊN NHO
XÃ GIA ĐÔNG HUYỆN THUẬN THÀNH TỈNH BẮC NINH
Nhà nghiên cứu: Th.s LÊ THÀNH NGHỊ
Tell: 0912222315
LỜI TỰA
Đạo Phật là một triết lý phương Đông cực kỳ sống động và triết lý ấy
đã đi vào cuộc đời bằng chân lý thực chứng của mình. Ngõ hầu cắt ngang
sự chậm tiến, lạc hậu, mê tín, cuồng tín và kém văn minh của thời đại.
Đạo Phật đã đem lại cho con người một cái nhìn mới, một lối sống mới,
một sự hài hòa mới, sống với nhau như ánh sáng trong không gian, chan hòa
với nhau như nước với sữa. Einstein (1879-1955) tiến sỹ triết học,
toán học và vật lý. Nhà bác học vĩ đại, Tác giả của thuyết tương đối,
đã đi vào cuộc đời bằng chân lý thực chứng của mình. Ngõ hầu cắt ngang
sự chậm tiến, lạc hậu, mê tín, cuồng tín và kém văn minh của thời đại.
Đạo Phật đã đem lại cho con người một cái nhìn mới, một lối sống mới,
một sự hài hòa mới, sống với nhau như ánh sáng trong không gian, chan hòa
với nhau như nước với sữa. Einstein (1879-1955) tiến sỹ triết học,
toán học và vật lý. Nhà bác học vĩ đại, Tác giả của thuyết tương đối,
của bom nguyên tử
đã khẳng định giá trị vĩnh cửu đối với Giáo lý của Đạo Phật
đã khẳng định giá trị vĩnh cửu đối với Giáo lý của Đạo Phật
"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên
mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả
phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức
đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên
trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các
điều kiện đó"
mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả
phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức
đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên
trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các
điều kiện đó"
"Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa
học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan
điểm của mình để cập nhật hóa với nhữngkhám phá mới của khoa
học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng
theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt
qua khoa học"
học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan
điểm của mình để cập nhật hóa với nhữngkhám phá mới của khoa
học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng
theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt
qua khoa học"
"Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không
có khoa học thì mù quáng"
có khoa học thì mù quáng"
Đức Phật nhập niết bàn để lại cho hậu thế 84000 pháp môn và 18
hình tướng nhằm hoằng dương Phật Pháp, phổ độ quần sinh. Cứu con
người thoát khỏi đau khổ trầm luân, đưa họ về với thế giới cực lạc.
hình tướng nhằm hoằng dương Phật Pháp, phổ độ quần sinh. Cứu con
người thoát khỏi đau khổ trầm luân, đưa họ về với thế giới cực lạc.
Ngôi chùa Đại Bi cùng di vật, báu vật bia phu thê “hậu phật tượng”
là một minh chứng sống động về sự uyên bác, thâm sâu, linh ứng khôn
cùng của chư Phật, chư đại Bồ Tát và chư hiền Thánh Tăng. Không phải
vì thời gian như bia Thành Hoàng làng Thanh Ngoài(năm 211), hay bia
sá lợi Phật (năm 601) báu vật quốc gia của chùa Xuân Quan. Mà hơn thế,
một thông điệp hạnh phúc được mô tả không phải bằng ngôn ngữ văn tự,
mà là kết quả củatrí tuệ và giác ngộ hội tụ bằng ngôn ngữ dân gian, ngôn
ngữ bác học, ngôn ngữ đồ họa, và ngôn ngữ kiến trúc. Tuy mộc mạc,
đơn sơ nhưng sau đó là trùng trùng cấp độ,trùng trùng cung bậc.
Tùy theo duyên khởi, tùy theo giác độ của mỗi cá nhân. Để cảm nhận,
để chiêm nghiệm, để thẩm thấu giá trị văn hóa, giá trị tri thức,
để thấm thấu phẩm chất tinh anh, siêu việt của con người Việt Nam và dân tộc
Việt Nam. Lạy Phật từ bi hãy khai mở trí tuệ, tiếp linh, tiếp lực, tiếp Pháp
cho con tìm kiếm, khám phá xem Người muốn dạy bảo chúng ta điều gì
là một minh chứng sống động về sự uyên bác, thâm sâu, linh ứng khôn
cùng của chư Phật, chư đại Bồ Tát và chư hiền Thánh Tăng. Không phải
vì thời gian như bia Thành Hoàng làng Thanh Ngoài(năm 211), hay bia
sá lợi Phật (năm 601) báu vật quốc gia của chùa Xuân Quan. Mà hơn thế,
một thông điệp hạnh phúc được mô tả không phải bằng ngôn ngữ văn tự,
mà là kết quả củatrí tuệ và giác ngộ hội tụ bằng ngôn ngữ dân gian, ngôn
ngữ bác học, ngôn ngữ đồ họa, và ngôn ngữ kiến trúc. Tuy mộc mạc,
đơn sơ nhưng sau đó là trùng trùng cấp độ,trùng trùng cung bậc.
Tùy theo duyên khởi, tùy theo giác độ của mỗi cá nhân. Để cảm nhận,
để chiêm nghiệm, để thẩm thấu giá trị văn hóa, giá trị tri thức,
để thấm thấu phẩm chất tinh anh, siêu việt của con người Việt Nam và dân tộc
Việt Nam. Lạy Phật từ bi hãy khai mở trí tuệ, tiếp linh, tiếp lực, tiếp Pháp
cho con tìm kiếm, khám phá xem Người muốn dạy bảo chúng ta điều gì
cho hôm nay và mai sau.
ADI ĐÀ PHẬT
Thuận thành tháng 12 năm 2015.
Theo các sắc phong Bản Cảnh Thành Hoàng dưới triều Tự Đức
(1847-1883), Đồng Khánh (1885-1889), Duy Tân (1907-1916) thì Thôn
Yên Nho xã Gia Đông, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc ninh hiện nay là xã
Yên Định, Huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh. Nằm trong quần thể di tích
(1847-1883), Đồng Khánh (1885-1889), Duy Tân (1907-1916) thì Thôn
Yên Nho xã Gia Đông, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc ninh hiện nay là xã
Yên Định, Huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh. Nằm trong quần thể di tích
văn hóa tối linh, Tứ Pháp và Luy Lâu. Phía bắc và phía đông giáp quốc lộ,
phía nam giáp thôn Dừa, phía tây giáp thôn Tam Á. Trước đây thôn có
một ngôi chùa tên là Từ Bi Đại Thiền Tự. Các chân tảng kê cột đình,
chùa có kích thước lên đến gần 1m còn sót lại trên địa
một ngôi chùa tên là Từ Bi Đại Thiền Tự. Các chân tảng kê cột đình,
chùa có kích thước lên đến gần 1m còn sót lại trên địa
bàn thôn chứng tỏ ngôi chùa này rất lớn về quy mô và kiến trúc.
Tấm bia đá Phu Thê “Hậu Phật Tượng” là hiện vật thờ cúng duy nhất
Tấm bia đá Phu Thê “Hậu Phật Tượng” là hiện vật thờ cúng duy nhất
còn lại của ngôi chùa làng trong quá khứ.
Đồ họa
Bia là một tấm đá xanh khắc nổi một cặp vợ chồng ngồi cạnh
nhau theo thế thiền, người đàn ông bên trái, người đàn bà bên phải.
Thế ngồi của người đàn ông hai chân xếp bằng, hai bàn chân chéo
nhau, hai tay để trước huyệt mạch môn, tay trái ở trên, hai ngón cái
đan nhau để dưới lòng tay phải,vị trí tay kết ấn là 2/3 chiều dài thân
nhau theo thế thiền, người đàn ông bên trái, người đàn bà bên phải.
Thế ngồi của người đàn ông hai chân xếp bằng, hai bàn chân chéo
nhau, hai tay để trước huyệt mạch môn, tay trái ở trên, hai ngón cái
đan nhau để dưới lòng tay phải,vị trí tay kết ấn là 2/3 chiều dài thân
10x15(25) ngón út ở trên dốn. Đan điền thóp lại. Thế ngồi của
người đàn bà, chân phải chống thẳng với thân, tay phải co lại
thẳng, bàn tay phải đặt lên đầu gối các ngón tay xuôi xuống.
Chân trái co ngang thân, hợp với chân phải một góc vuông. Bàn
thẳng, bàn tay phải đặt lên đầu gối các ngón tay xuôi xuống.
Chân trái co ngang thân, hợp với chân phải một góc vuông. Bàn
chân trái ngửa lên, tay trái co lại thẳng, lòng bàn tay hướng về
phía sau, đan điền tròn phìng ra. Trang phục chỉnh
tề, kín đáo, người đàn ông đội mũ, người đàn bà vấn khăn, chỉ
hở mặt, tai, hai bàn tay và hai bàn chân Người đàn ông ngồi nhích
về phía trước một gối mặt chữ điền (12x16), thân 19x47. Khoanh
chân là 24x47 Khoảng cách từ tay chắp xuống gót là 8 từ tay phía
trên lên miệng là 16 lên mũi là 17 chiều cao của tay là 3 Tai người
phía sau, đan điền tròn phìng ra. Trang phục chỉnh
tề, kín đáo, người đàn ông đội mũ, người đàn bà vấn khăn, chỉ
hở mặt, tai, hai bàn tay và hai bàn chân Người đàn ông ngồi nhích
về phía trước một gối mặt chữ điền (12x16), thân 19x47. Khoanh
chân là 24x47 Khoảng cách từ tay chắp xuống gót là 8 từ tay phía
trên lên miệng là 16 lên mũi là 17 chiều cao của tay là 3 Tai người
đàn bà cao hơn người đàn ông 1, tai ngang mày, khuôn mặt tròn
đầy (13x14), thân 17x44. Mồm người đàn bà ngang mũi người
đàn ông, mắt người đàn bà ngang huyệt ấn đường người đàn ông,
mày người đàn bà ngang tâm trán người đàn ông, mũi người đàn
bà ngang giữa sống mũi người đàn ông và cách mồm người đàn
ông là 3 khoảng cách giữa 2 bàn chân ngửa lên là 19. khoảng cách
giữa gối người đàn ông và chân người đàn bà là 6, khoảng cách
giữa 2 bàn chân ngửa lên là 23, chiều cao từ bàn chân đến gối là 15.
Bàn chân phải của người con gái cách 2 vạch ngang mà người
đàn ông gối lên là 4.5 (4 và 5). Ngón tay người đàn bà 4,
đàn ông 3 hơn nhau 1, khoảng cách giữa 2 ngón út của bàn
tay người đàn ông là 1Bàn chân của người đà bà 6x3 dài hơn
người đàn ông 5x2.5 là 1 Minh văn hai bên có dèm kích thước 37,
bổ ô kích thước 28, khắc nổi cúc dây, sóng thủy ba , vân mây,
nét đặc trưng của hoa văn thế kỷ 11-13, Mặt trước mái vòm có
3 chữ Hán duy nhất đọc từ phải sang “HẬU PHẬT TƯỢNG”
Vòng âm dươngở chính giữa là 2 vòng tròn đồng tâm, kích thước
vòng trong là 42, vòng ngoài là 55 cách khung chữ phía dưới 30
Khung chữ nhật khắc chữ ở dưới vòng âm dương
có kích thước 4.5x17.5.
đầy (13x14), thân 17x44. Mồm người đàn bà ngang mũi người
đàn ông, mắt người đàn bà ngang huyệt ấn đường người đàn ông,
mày người đàn bà ngang tâm trán người đàn ông, mũi người đàn
bà ngang giữa sống mũi người đàn ông và cách mồm người đàn
ông là 3 khoảng cách giữa 2 bàn chân ngửa lên là 19. khoảng cách
giữa gối người đàn ông và chân người đàn bà là 6, khoảng cách
giữa 2 bàn chân ngửa lên là 23, chiều cao từ bàn chân đến gối là 15.
Bàn chân phải của người con gái cách 2 vạch ngang mà người
đàn ông gối lên là 4.5 (4 và 5). Ngón tay người đàn bà 4,
đàn ông 3 hơn nhau 1, khoảng cách giữa 2 ngón út của bàn
tay người đàn ông là 1Bàn chân của người đà bà 6x3 dài hơn
người đàn ông 5x2.5 là 1 Minh văn hai bên có dèm kích thước 37,
bổ ô kích thước 28, khắc nổi cúc dây, sóng thủy ba , vân mây,
nét đặc trưng của hoa văn thế kỷ 11-13, Mặt trước mái vòm có
3 chữ Hán duy nhất đọc từ phải sang “HẬU PHẬT TƯỢNG”
Vòng âm dươngở chính giữa là 2 vòng tròn đồng tâm, kích thước
vòng trong là 42, vòng ngoài là 55 cách khung chữ phía dưới 30
Khung chữ nhật khắc chữ ở dưới vòng âm dương
có kích thước 4.5x17.5.
Kiến trúc
Thân bia dày 20, rộng 50,cao 80 (20x50x80)
Đế bia 26x55x20(kích thước chiều cao đế do dự đoán của tác giả)
Lòng bia kiến trúc như một chiếc cổng mái vòm có các kích thước
ngang Lòng bia 36.5-37-37.5-40, chiều rộng vòm 36,5, hèm
ngang Lòng bia 36.5-37-37.5-40, chiều rộng vòm 36,5, hèm
(40-36,5)/2=1,75, bờ bia 5
Kích thước dọc 45, 7, 52, 64, 28, 80
Chiều sâu của hình khắc là 3.3
Ô quẻ hai bên dưới gối trái phải hai người là 30x30
Khảo cứu
Việc khảo cứu tấm bia này nhằm trả lời các nội dung chính sau
Thứ nhất niên đại ?
Thứ hai hoàn cảnh ra đời ?
Thứ ba những thông điệp ẩn chứa ?
Niên đại và hoàn cảnh ra đời
Hậu Phật có từ khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam, Tượng
đá hậu phật Tỳ Ni đa lưu chi tại chùa Phi Tướng Đại Thiền Tự
có từ thế kỷ (TK 5-6) là ví dụ cụ thể cho nhận định này. Thịnh
hành vào thời Lý Trần (TK 11-14) khi mà Phật giáo trở thành quốc đạo,
việc xây dựng các công trình văn hóa tâm linh được xã hội hóa triệt để.
Bản văn tự ghi chép về việc lập hậu Phật sớm nhất được biết là
thời Hồng Đức (1470-1497). Hậu Phật trước TK14 chủ yếu là
hình tượng, phối thờ cùng chư Phật. từ TK15
Hậu Phật có từ khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam, Tượng
đá hậu phật Tỳ Ni đa lưu chi tại chùa Phi Tướng Đại Thiền Tự
có từ thế kỷ (TK 5-6) là ví dụ cụ thể cho nhận định này. Thịnh
hành vào thời Lý Trần (TK 11-14) khi mà Phật giáo trở thành quốc đạo,
việc xây dựng các công trình văn hóa tâm linh được xã hội hóa triệt để.
Bản văn tự ghi chép về việc lập hậu Phật sớm nhất được biết là
thời Hồng Đức (1470-1497). Hậu Phật trước TK14 chủ yếu là
hình tượng, phối thờ cùng chư Phật. từ TK15
Hậu Phậtđược ghi trên bia đá như một thần phả để phối thờ
cùng các tổ bản tự. Hậu phật là những cá nhân có công tích,
cùng các tổ bản tự. Hậu phật là những cá nhân có công tích,
công đức đóng góp trí lực, vật lực cho việc hình thành một
quy mô văn hóa tâm linh Phật giáo. Được nhà nước, cộng đồng
quy mô văn hóa tâm linh Phật giáo. Được nhà nước, cộng đồng
công nhận và bầu chọn. được tạc tượng, khắc bia đá để phối thờ
cùng chư Phật và được hưởng lộc từ việc cúng giàng của dân, xã.
cùng chư Phật và được hưởng lộc từ việc cúng giàng của dân, xã.
Tấm bia “Hậu Phật Tượng” ra đời cũng nằm trong bối cảnh trên
Căn cứ vào trang phục của hình tượng, minh văn đặc thù,
ten đá theo thời gian, thì tấm bia này có niên đại khoảng
thế kỷ 11-14, hoặc trước đó.
ten đá theo thời gian, thì tấm bia này có niên đại khoảng
thế kỷ 11-14, hoặc trước đó.
Thông điệp ẩn chứa
Thiền phái và tâm ấn
教外別傳
|
Giáo ngoại biệt truyền
|
Truyền giáo pháp ngoài kinh điển
|
不立文字
|
Bất lập văn tự
|
không lập văn tự
|
直指人心
|
Trực chỉ nhân tâm
|
chỉ thẳng tâm người
|
見性成佛
|
Kiến tính thành Phật
|
thấy chân tính thành Phật
|
Hình tướng bên ngoài của nam nhân (dương, bên ngoài)
bao gồm thế ngồi
hành thiền, hướng thiền, trang phục, thế chân, thế tay.
Chứng tỏ phật tử hành
bao gồm thế ngồi
hành thiền, hướng thiền, trang phục, thế chân, thế tay.
Chứng tỏ phật tử hành
thiền phật giáo nguyên thủy.
Thuận theo duyên khởi, thế ngồi khác với hành thiền của chư phật,
chư thánh, chư tăng là kiết già. Nam nhân là một thiền sư có một
trường phái khác biệt dành cho đệ tử phật giáo tục gia. Vị này là ai
trong các vị thiền sư Việt Nam thế kỷ 10-15 tại Kinh Bắc ?
Hình tướng bên ngoài của nữ nhân mô tả hành trạng bên
trong cơ thể (âm, bên trong) của nam nhân khi hành thiền.
Hai chân co duỗi của nữ nhân như nhịp hít vào và thở ra.
Thể hiện trường độ, tốc độ của hơi thở đều đặn, vi tế,
được điều khiển bằng ý, tương tự như việc co và duỗi
hai chân. Nữ bụng tròn đầy là hít vào (âm), Nam nhân
bụng thóp lại là thở ra (dương), quán tưởng về mùi hương, về
một không gian thuần khiết từ cây cỏ, hòa đồng cùng thiên nhiên,
trở về thiên nhiên. Mồn cách mũi 1,
chiều cao của huyệt mạch môn là 3 (nhịp thở 1-2-3, chu kỳ là 4)
chư thánh, chư tăng là kiết già. Nam nhân là một thiền sư có một
trường phái khác biệt dành cho đệ tử phật giáo tục gia. Vị này là ai
trong các vị thiền sư Việt Nam thế kỷ 10-15 tại Kinh Bắc ?
Hình tướng bên ngoài của nữ nhân mô tả hành trạng bên
trong cơ thể (âm, bên trong) của nam nhân khi hành thiền.
Hai chân co duỗi của nữ nhân như nhịp hít vào và thở ra.
Thể hiện trường độ, tốc độ của hơi thở đều đặn, vi tế,
được điều khiển bằng ý, tương tự như việc co và duỗi
hai chân. Nữ bụng tròn đầy là hít vào (âm), Nam nhân
bụng thóp lại là thở ra (dương), quán tưởng về mùi hương, về
một không gian thuần khiết từ cây cỏ, hòa đồng cùng thiên nhiên,
trở về thiên nhiên. Mồn cách mũi 1,
chiều cao của huyệt mạch môn là 3 (nhịp thở 1-2-3, chu kỳ là 4)
Hạnh phúc gia đình và đạo vợ chồng
Đồng lực, đồng tâm, đồng chí, bình đẳng, hòa hợp, sức khỏe,
trí tuệ, con cái, và của cải là những giá trị cốt lõi tạo dựng nên
một gia đình hạnh phúc. Kích thước và vị trí của hai người chỉ ra người
trí tuệ, con cái, và của cải là những giá trị cốt lõi tạo dựng nên
một gia đình hạnh phúc. Kích thước và vị trí của hai người chỉ ra người
nam luôn ở phía trước trong
mọi hoạt động, người nữ ở phía sau, người nam cần nhìn xa hơn và người nữ
mọi hoạt động, người nữ ở phía sau, người nam cần nhìn xa hơn và người nữ
nên nghe nhiều hơn.
Kích thước của không gian bia chỉ ra một năm có 365 ngày, chia làm 12 tháng
và mỗi tháng có 30 ngày, 2 ngày là của nghiệp, còn lại 28 ngày thì các ngày
và mỗi tháng có 30 ngày, 2 ngày là của nghiệp, còn lại 28 ngày thì các ngày
1,5,7. Tháng 1,5,7 là những ngày, tháng cần lưu ý.Nếu lấy 19/2 ta được 9,5 tức
là 12 giờ trưa ngày mồng 10 là giới hạn. Như vậy ngày 2,4,6,8,9,10. là những
ngày giờ cần lưu ý (6 hoặc 8 = 23-15) Khoảng thời gian của nữ là 17-44
Khoảng thời gian của nam là 19-47 Chênh lệch 2-3
Con người
Leonardo da Vinci vẽ Người Vitruvius dựa trên quan điểm của ông về tỷ lệ lý tưởng của
số đo cơ thể người và các khái niệm về hình học, kiến trúc trong tác phẩm De Architectura
số đo cơ thể người và các khái niệm về hình học, kiến trúc trong tác phẩm De Architectura
“
|
(Kích thước) Bốn ngón tay bằng một lòng bàn tay, bốn lòng bàn tay bằng một
bàn chân, sáu lòng bàn tay bằng một cẳng tay. Bốn cẳng tay bằng chiều dài một bước. Bốn cẳng tay tương ứng chiều cao một người, tức là hai mươi bốn lòng bàn tay, người ta dùng các số đo này trong xây dựng. Nếu một
người dạng chân sao cho chiều cao giảm xuống
một phần mười bốn và giang hai tay sao cho các ngón tay cao ngang đầu, thì người đó sẽ nhận ra rằng tâm của cơ thể người là rốn,
và rằng không gian tạo thành giữa hai chân là một tam giác đều. Độ dài hai cánh tay duỗi thẳng của một người chính bằng
chiều cao của người đó. Khoảng cách từ chân tóc đến hết cằm bằng
một phần mười chiều cao của người. Khoảng cách từ cằm đến đỉnh đầu là một phần tám. Khoảng cách từ ngực đến đỉnh đầu là một phần sáu. Khoảng cách từ ngực đến chân tóc là một phần bảy. Khoảng cách từ núm vú đến đỉnh đầu là một phần tư chiều cao của người. Độ
rộng tối đa giữa hai vai bằng một phần tư. Từ khuỷu tay đến đầu bàn tay là
một phần năm. Từ khuỷu tay đến nách là một phần tám. Chiều dài bàn tay bằng một phần mười chiều cao người. Phần đầu cơ quan sinh dục nằm ở giữa. Độ dài bàn chân bằng một phần bảy chiều cao người. Từ lòng bàn chân đến đầu gối là một phần tư. Từ đầu gối đến cơ quan sinh dục là một phần tư. Khoảng cách
từ cằm đến mũi, và từ chân tóc đến lông mày hoặc tai là bằng nhau và bằng một
phần ba chiều dài mặt.
|
”
|
So sánh với nội dung mà Vitruvius đã viết trong tập 3.1.3 của De Architectura
có thể thấy Leonardo da Vinci đã minh họa lại rõ ý tưởng của Vitruvius:
có thể thấy Leonardo da Vinci đã minh họa lại rõ ý tưởng của Vitruvius:
“
|
Vị trí tự nhiên của rốn là ở trung tâm của cơ thể người. Nếu một người hướng
thẳng mặt về phía trước và duỗi chân, tay sao cho rốn vẫn là trung tâm, thì các đầu ngón tay và ngón chân sẽ nằm trên một hình tròn có tâm là rốn...
Nếu đo khoảng cách từ chân đến đỉnh đầu, ta sẽ thấy nó bằng khoảng
cách của hai cánh tay duỗi thẳng, vì vậy các đường
thẳng này sẽ tạo thành một hình vuông bao lấy cơ thể người.
|
Nếu theo tỷ lệ trên của con người thì người đàn ông có chiều cao là 2x7+
(5x7/10) = 175 Cân nặng 75-10 = 70kg, vòng ngực 175/2-10 = 87,25-10 =
77,25 Và người đàn bà là 2x7+(6x7/10) - 2 = 162.0. Cân nặng 162-105= 57 kg,
(5x7/10) = 175 Cân nặng 75-10 = 70kg, vòng ngực 175/2-10 = 87,25-10 =
77,25 Và người đàn bà là 2x7+(6x7/10) - 2 = 162.0. Cân nặng 162-105= 57 kg,
vòng ngực 162/2 = 81 (đi qua hai núm vú)
Tuổi của người đàn ông lớn hơn người đàn bà 2 tuổi.
Mô hình kiến trúc
Kích thước lý tưởng của một ngôi nhà là 2x5x8 móng 2x2.6x5.5
Kích thước lý tưởng của mái vòm là 36.5x7x28 và 50x16
Trang phục
Nam áo the, đội mũ vải có chùm phía sau, có đai giữa huyệt mạch môn, kiểu quan
phục Nữ áo the, đội miện và vấn khăn rủ phía sau, bên trong mặc yếm
phục Nữ áo the, đội miện và vấn khăn rủ phía sau, bên trong mặc yếm
Kết luận
Tấm bia Phu Thê “Hậu Phật Tượng” là một báu vật độc nhất vô nhị, xứng tầm
một báu vật quốc gia, nó hội tụ đầy đủ nhất quan điểm triết học về hạnh phúc gia
một báu vật quốc gia, nó hội tụ đầy đủ nhất quan điểm triết học về hạnh phúc gia
đình, nó còn chỉ ra cho con người con đường để đạt được hạnh phúc.
Một trường phái thiền định chưa từng được biết với đầy đủ các thao tác và kỹ thuật
thiền, dành cho mọi người mọi tầng lớp, ở mọi điều kiện và hoàn cảnh khác nhau,
đặc biệt hơn là nó còn mô tả được cả trang phục khi hành thiền, thế ngồi của nam,
và nữ, hướng ngồi, giờ thực hành, điều mà đại chúng chưa từng được biết.
Tấm bia Phu Thê “Hậu Phật Tượng” chứa đựng một tàng kinh các, một kho trí tuệ
Phật giáo, vượt qua không gian và thời gian, vượt qua mọi biến cố của thiên tai,
của chiến tranh , vượt qua sự đổi thay của lịch sử tự tồn tại và hiện hữu tại nơi đây,
một làng quê yên bình xứ Kinh Bắc.
Mong muốn của cổ nhân thì nhiều, mà hiểu biết của bản thân thì mỏng, lên chỉ ngộ
được một phần rất nhỏ ý của Thánh nhân, rất mong được mọi người hoan hỷ, chia sẻ,
chỉ bảo thêm.
Tác giả xin chân thành cảm ơn !
NAM MÔ HOAN HỶ TẠNG BỒ TÁT MA HA TÁT