Phật tử
Lê Thành Nghị
Tell 0912222315
Email nghik3@gmail.com
Bắc Ninh, năm 2014
Lời tựa
Phật tử một lòng thành kính hướng
Phật, phát tâm viết lại quá trình hình thành , phát triển của chùa Huệ Trạch,
tọa lạc tại thôn Xuân Quan, xã Trí Quả, Huyện Thuận Thành, Tỉnh Bắc Ninh.
Trải qua quá
trình lịch sử hơn bốn ngàn năm từ khi Linh Nại, một trong năm mươi người con
của Lạc Long Quân, lập làng, mở đất, xuất lai dân xã, đến thời Bắc thuộc, trải
qua các Triều đại Phong kiến, chiến tranh, loạn lạc, những cứ liệu còn giữ lại
được không đáng kể và không liên tục.
Câu hỏi đặt ra ở đây là
Thứ nhất, khi Thái
thú Giao Châu Sỹ Nhiếp (137-226) cho xây dựng các ngôi chùa thờ tứ Pháp (187 –
226 ) thì đã có chùa Thiền Chúng chưa ? Chùa Thiền Chúng có từ bao giờ ?
Thứ hai, trước
khi Tùy Hoàng Đế sai pháp sư Tuệ Nhã sang đặt xá lợi và trụ trì vào năm 601,
thì ai là trụ trì nơi đây, tại sao lại có tên Thiền Chúng tự ?
Thứ ba, Đức
Phật chủ là học trò của Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072-1116), theo trường phái
thiền tông, và mật tông, nhưng khi hành pháp lại là tịnh độ tông vậy di ngôn
của Đức Phật chủ ở đây là gì ?
Thứ tư, Tác
giả của các quẻ thẻ là ai, ở đâu, vào thời điểm nào, mà uyên bác, linh nghiệm
và khác biệt như vậy ?
Mong muốn thì
dày, nhưng sức thì mỏng, Phật tử kính mong các vị Trưởng lão, Nhân dân, Quý
khách xa gần, tham gia, đóng góp, bổ xung khiếm khuyết để cuốn sách này được hoàn
thiện, viên mãn.
Đệ tử cầu xin Phật
Tổ từ bi, mở lượng hải hà, phổ độ cho Quốc thái, Dân an, Gia đình hạnh phúc.
Đệ tử cầu xin
Đức Phật chủ xóa bỏ tai ách, nghiệp chướng, cho chúng sinh tạo nghiệp thoát
khỏi bến mê, về bên bờ giác.
Đệ tử cầu xin
Phật bà Quan Thế Âm Bồ Tát tiếp linh, tiếp lực, tiếp pháp cứu khổ chúng sinh về
miền cực lạc
Trong nội dung cuốn sách này có mật chú và linh hiệu Phật chủ, kính mong quý phật tử, hãy trân trọng, gìn giữ, gieo duyên, giới thiệu rộng rãi đến mọi người, mọi xứ.
Trong nội dung cuốn sách này có mật chú và linh hiệu Phật chủ, kính mong quý phật tử, hãy trân trọng, gìn giữ, gieo duyên, giới thiệu rộng rãi đến mọi người, mọi xứ.
Chùa là quần
thể kiến trúc, Thánh đường thờ cúng và truyền bá Phật giáo, mà giáo lý đặc
trưng của nó là luân hồi và nhân quả. Đến với Phật Pháp là đến với tuyệt học vô
lường, hoán cung, đổi số, cải thiên mệnh, biến khó thành dễ, biến nguy thành
an, biến gian thành ngay, biến mê thành giác, biến họa thành phúc, biến ngu
thành trí, biến bĩ thành thái, biến hèn
thành sang, biến tiểu nhân thành đại nhân.
Chùa còn là địa chỉ tâm linh, là
nét đặc trưng văn hóa của cư dân các dân tộc Việt, gắn liền với đời sống sinh hoạt,
gắn liền với lịch sử, để giữ gìn những giá trị quý báu, nhân văn, cổ truyền của
dân tộc, hướng thiện cho hành động, ý nghĩ của con người. Để họ sám hối với
những việc làm sai trái, hành xử, đối đãi, coi vạn vật như chính bản thân mình,
tu sửa, hỷ xả, giác ngộ, để cùng nhau hướng về nước Phật cực lạc.
Như thi sỹ Huyền Không đã khái
quát về chùa là
Mái nhà che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông
Trong tất cả các làng xã Việt
Nam, đâu đâu cũng có Chùa, Chùa là trường học, đào tạo ra các anh hùng cứu nước
cứu dân như Lý Công Uẩn, là nơi tu tâm dưỡng tính của các bậc quân vương như
Trần Nhân Tông, là cơ sở cách mạng khi đất nước lâm nguy, là ngôi nhà tình
thương che chở, cứu độ những mảnh đời bất hạnh, những linh hồn cô quả. Với tất
cả những gì vốn có của nó, chùa còn là một bảo tàng văn hóa, hàm chứa những giá
trị vô cùng vô tận, của quá khứ, hiện tại và tương lai.
Sắc phong Phật chủ chùa Huệ Trạch
có đoạn viết
“Sắc Bắc Ninh tỉnh, Thuận Thành
phủ, Siêu Loại huyện, Khương Tự tổng, Phương Quan xã, Xuân Lan thôn phong phụng
sự Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật tôn thần hộ quốc tý dân,.. Túy mục dực bảo
trung hưng thượng đẳng thần..”.
Hãy đến với chùa Huệ Trạch một
trong những linh địa linh thiêng bậc nhất Việt Nam , đã tồn tại, đang tồn tại, và
còn mãi mãi cùng với lịch sử. Gắn liền với những huyền tích bí ẩn, những quẻ
thẻ nhiệm màu, tập tục tế lễ trang nghiêm, và những làn điệu cung văn mê đắm.
Chùa Huệ Trạch ngày nay, chính là
Chùa Thiền Chúng cổ xưa. Là linh huyệt mà Tùy Hoàng Đế đã chọn để an xá lợi
Phật. Nhằm Hoằng dương Phật Pháp, phổ độ quần sinh. Dạy bảo tam đồ, lục đạo,
cùng gieo duyên lành, để hưởng quả phúc như lời giáo hóa của Đức Phật.
NAM MÔ ADI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ ADI ĐÀ PHẬT
Từ Hà Nội qua sông Hồng, đi theo
quốc lộ số 5 khoảng 15 km rẽ trái đi theo quốc lộ 282, 10 km đến ngã tư chợ
Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh, rẻ trái đi theo tỉnh lộ 282 khoảng 2km đến chợ Dàn,
Bên cạnh đó là Chùa thôn Xuân Quan có tên hiện nay là chùa Huệ Trạch.
Tọa lạc trên diện tích 1,5 ha,
Phía Đông nam giáp làng Phương Quan, Phía Tây Nam giáp làng Tư Thế, Phía đông Bắc giáp làng Đại Trạch
Làng Xuân Quan có tên cổ là Dàn Chợ
một trong ba làng Dàn là Dàn Chợ, Dàn
Đan, và làng Dàn Câu
Làng Dàn chợ là nơi tập trung
trao đổi, mua bán sản vật của cư dân lao động quanh vùng ven của thành Luy Lâu
Thành Luy Lâu trong thời kỳ Bắc thuộc, thuộc nhà Đông Ngô, Sĩ
Nhiếp, một quan chức người Hán được vua Ngô cử làm thứ sử Giao Châu, ông
đã cho xây dựng lại thành Luy Lâu, đặt làm trung tâm của bộ máy cai trị.
Luy
Lâu thời Bắc thuộc không chỉ là trung tâm chính trị, mà còn là trung tâm kinh
tế - thương mại, trung tâm văn hóa - tôn giáo lớn và cổ xưa nhất của Việt Nam .
Đô thị Luy Lâu nằm giữa khu vực
giao nhau giữa Sông Dâu và Sông Đuống, giữa trung tâm đồng bằng châu thổ Bắc
Bộ, trong đó Sông Dâu giữ vai trò trục không gian kiến trúc chính. Các công
trình của đô thị chủ yếu dựng đặt, xây cất bên bờ Sông Dâu (thành lũy bên một
bờ sông). Trung tâm đô thị là tòa Thành Luy Lâu kiên cố và bề thế - trụ sở
chính và căn cứ quân sự của bộ máy cai trị. Trong thành là công đường, dinh
thất, nhà cửa, đồn trại, kho bãi… Mặt lũy thành là tháp canh, đồn trại, bao lấy
lũy thành là hào sâu, lũy tre dày đặc nhằm bảo vệ bộ máy cai trị của phong kiến
ngoại tộc. Ngoài thành, ở hai phía Nam - Bắc là nhà
ở, dinh thự, lầu gác của quan lại, quý tộc là chủ yếu, mà nay còn lại dấu tích
khảo cổ và địa danh Văn Quan, Phương Quan, Mã Quan, Cánh Sở…Di tích để lại ngày
nay chỉ còn một đoạn tường thành nhỏ còn sót lại, tại xã Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Theo các nguồn sử liệu, các nước phương Tây và phương Nam
muốn buôn bán, giao thiệp với Trung Quốc đều phải theo con đường Giao Chỉ. Từ
Tr.C.N và nhất là từ thế kỷ II-III S.C.N trở đi, ngày càng có nhiều thương nhân
nước ngoài đến buôn bán ở Giao Châu và thuyền buôn của họ thường xuyên có mặt ở
Luy Lâu. Những chứng tích vật chất và các nguồn tài liệu ở Luy Lâu đã khẳng
định Luy Lâu thực sự là trung tâm thương mại lớn - một đô thị cảng mang tính
quốc tế của nước ta thời Bắc thuộc.
Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán Đường đã được
truyền bá liên tục vào nước ta. Đây là nơi đầu tiên Sỹ Nhiếp mở trường lớp dạy chữ và văn hoá Hán.
Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của người Việt.
Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm là chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như
tượng pháp, bia ký, bản khắc Cổ Châu Pháp Vân vật bản hạnh và lễ hội chùa Dâu -
lễ hội Phật giáo lớn nhất trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước
Tứ Pháp, rước nước đã cho thấy Luy Lâu là trung tâm Phật giáo lớn và sớm nhất
Việt Nam. Luy Lâu là không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến đổi
hội tụ và kết tinh văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á và Trung Á,
văn hoá Nho Lão (Trung Hoa - Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá Lạc
Việt.
Một số hiện vật khảo cổ tại
vùng luy lâu, và xung quanh chùa Huệ trạch
Hộ tâm, dao, mác, cốc hiện vật thời đông sơn phát hiện tại
làng Đại Trạch xã Đình Tổ
Trang sức Ngọc hiện vật thời đông sơn phát hiện tại làng
Đại Trạch xã Đình Tổ
Gốm Đông sơn, hiện vật khu Luy
Lâu
Đồ dùng trong sinh hoạt hàng ngày
(bát, chén, quả cân)
Trang sức, ngọc, vàng, bạc
Tiền xu cổ (Hán, Đường, lý…)
Đầu gậy Tích trượng của Thượng tọa
Làng Dàn Đan làm nghề thủ công, sử
dụng vật liệu là cây tre, chế tạo các dụng cụ phục vụ cho đánh bắt , hái lượn,
và chề biến nông sản, đan nát, đóng cối xay lúa,
Làng Dàn Câu làm nghề cơ khí, chủ
yếu là rèn, chế tác các loại đồ đồng, đồ sắt, phục vụ sản xuất sinh hoạt và bảo
vệ cuộc sống cho cư dân, uốn lưỡi câu, để bắt cá trên sông Dâu, một nhánh của
sông thiên Đức tức sông Đuống ngày nay.
Làng Xuân
Quan, thời các vua Hùng mở nước, nơi đây đã được một trong những người con của
Lạc Long Quân tên là Linh Nại , mở mang khai phá, xuất lai dân xã.
Được các triều đại kế tiếp sắc
phong Linh ứng Đại Vương Thượng Đẳng thần, và được phong là Thành Hoàng làng,
bảo dân, hộ quốc.
Chùa Xuân Quan
là linh địa ở vào vị trí trung tâm của luy lâu Việt cổ trong những thế kỷ đầu
công nguyên. Mảnh đất Xuân Quan là nơi diễn ra và chứng kiến những biến động
lớn của lịch sử dân tộc, Bắc thuộc, và chống bắc thuộc. Đặc biệt cuộc khởi
nghĩa hai Bà Trưng, Để lại những dấu ấn đặc sắc trên đất này, mà biểu hiện cụ
thể là việc thờ cúng hai nữ tướng Ả Tắc, Ả dị.
Bia xá lị
Theo xá lợi Minh ghi lại
Duy đại Tùy Nhân Thọ nguyên niên tuế
thứ, tân dậu, thập nguyệt, tân hợi sóc thập ngũ nhật, ất sửu
Hoàng đế phổ vị nhất thiết pháp
giới, u hiển sinh linh. cẩn ư giao châu, long biên huyện, thiền chúng tự, phụng
an xá lợi, kính tạo linh tháp.
Nguyện Thái Tổ Vũ Nguyên Hoàng
đế, Nguyên Minh hoàng hậu,
Hoàng đế, hoàng hậu, hoàng thái
tử, chư vương, tử tôn đẳng tịnh, nội ngoại quần quan ái cập dân thứ lục đạo,
tam đồ, nhân, phi nhân, đẳng, sinh, sinh, thế thế, trị phật văn pháp,vĩnh ly khổ
không đồng thăng diệu quả
Sắc cử đại đức tuệ nhã pháp sư,
Lại bộ vũ kỵ úy Khương Huy, tống xá lợi ư thử khởi tháp
Dịch nghĩa
Ngày 15 tháng 10 năm 601 Triều
đại nhà Tùy
Hoàng đế Vũ Nguyên,
độ khắp chúng sinh trong ba cõi,
tại chùa Thiền Chúng, huyện Long Biên, Giao Châu, tức chùa Huệ Trạch, huyện Thuận
Thành tỉnh Bắc Ninh, đặt xá lợi và xây
tháp
Vua, Hoàng Hậu, con trai, con gái,
Hoàng tộc, Bá quan văn võ, Nhân dân, Lục đạo ( trời, người, atula, địa ngục,
ngã quỷ, súc sinh), Tam đồ ( thiên, địa, nhân) đều được thuận theo lời dậy của Đức
Phật, mãi mãi thoát khỏi cõi khổ trầm luân, cùng hưởng quả phúc
Lệnh cho Đại đức Tuệ Nhã pháp sư,
lại bộ vũ kỵ úy Khương Huy, Dựng linh tháp và an vị xá lợi.
Sắc phong phật chủ
Sắc phong phật chủ
Sắc Bắc Ninh tỉnh, Thuận Thành Phủ, Siêu Loại huyện, Phương
Quan xã, Xuân Quan thôn, Phong phụng sự Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật tôn
thần, hộ quốc , tý dân, niệm trứ linh ứng, tứ kim chính trực, Trẫm tứ tuần đại
khánh tiết, kính đầu bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, trứ phong vi túy mục
dực bảo trung hưng thượng đẳng thần, chuẩn kỳ phụng sự tương hựu bảo ngã lê
dân, khâm tải
Khải định cửu niên thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật
Dịch nghĩa:
Sắc Bắc Ninh tỉnh, Thuận Thành Phủ, Siêu Loại huyện, Phương
Quan xã, Xuân Quan thôn, Phong cúng lễ Đại
Thánh Pháp Thông Vương Phật tôn thần, bảo vệ đất nước che chở nhân dân, niệm
danh sẽ ứng, tứ kim chính trực. Ngày mừng Trẫm 40 năm ở ngôi vua , việc đầu
tiên là ban ân báu đến muôn nơi, xét công gia phong là
Túy mục dực bảo trung
hưng thượng đẳng thần,
chuẩn kỳ phụng sự, cùng Trẫm dạy bảo nhân dân
Cứ thế
Ngày 25 tháng 7 năm thứ 9 Khải Định (25/07/1924)
Thánh tử Vương Phật
Kim đồng
Ngọc nữ
Chính giữa chùa Xuân Quan thờ
Phật chủ là Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật, đó là vị tứ pháp trưởng làm chủ tể
địa phương này, Pháp Thông là người phụ nữ Việt Nam tu luyện đắc đạo thành
Phật.
Đại Thánh Pháp Thông Phật phả lục - hàn lâm viện đông các Nguyễn Bính
soạn
1890: Canh ngọ niên
Xưa nước Việt
ta dựng nền chia danh giới từ thời Hùng Vương dựng nghiệp. Vua, Thánh, xây dựng
các cơ đồ, trải 18 đời lâu dài hơn 2000 năm thịnh trị. Đời đời cha truyền con
nối, đều xưng hiệu là Hùng Vương, Vàng lụa, xe, nhà, thơ từ, núi sông đều thống
nhất một mối. Đấy là thủy tổ của nước Việt Nam . Đến vua Hùng Vương cuối cùng
không có con, truyền nước cho Thục An Dương Vương, được hơn 50 năm. Triệu, húy
Đà xâm chiếm từ đó thuộc về Tây Hán, Đông Hán, Ngô, Tống, Tấn, Lương, Tề gồm
314 năm.
Đến nước ta có
tiền Lý lấy lại Nước, hậu Lý, Đinh, Lê, lại đến Lý triều, Vua sáng, Tôn hiền
rất là thịnh trị. Duy Lý triều sớm ứng thập bát tứ chi thành, Vua nắm quyền,
cha truyền, con nối. Truyền Thái Tôn, Thánh Tôn, Anh Tôn, Thần Tôn
Ở đạo Kinh
Bắc, Thuận An phủ, Siêu Loại huyện, Phương Lan xã, Xuân Lan thôn, Có một nhà Họ
nguyễn tên ông Thành lấy người trong huyện ở Đại Trạch xã, là Nguyễn Thị Nga
làm vợ. Vợ chồng hòa thuận, đẹp đôi vừa lứa, nhưng hiếm vì hơn 20 năm chưa có
con. Nhân dịp tháng 7 trong lúc trăng thanh gió mát, vợ chồng thường có ý nghĩa
bàn chuyện nhân quả, thời xưa đến việc tương lai sau này. Hai vợ chồng đều nói,
nhờ trời phật đã cho gia đình nhà ta giầu có, nhưng tuổi đã nhiều, con còn
muộn. Vậy nên mang số tiền của ấy để làm phúc cầu lễ mười phương. May ra được
vài chút con, để toại nguyện ý muốn của thời tuổi trẻ. Từ đó hai vợ chồng thành
tâm làm phúc đi cầu lễ tất cả những nơi danh nam cổ tự. Lòng thành thấu đến
trời đất.
Đến dịp trời
xuân, hòa khí trăm hoa đua nở, muôn vật thắm tươi. Vợ chồng Ông Thành đến Sơn
Lam Thượng, xứ Ứng Thiên Phủ, Hoài An huyện, Hương Tích động. Thật là một nơi
Thiên Nam
đệ nhất thắng cảnh, rất linh thiêng, cầu sao được vậy. Vợ chồng liền đem tiền
hương, lễ vật đến cầu trước Phật: Vợ chồng con ở nơi trần thế, chuyên tâm làm
việc thiện, việc ác dù nhỏ cũng không dám theo, duy đường tử tức còn rất muộn,
xin cầu Phật Tổ từ bi quảng đại, chứng dám lòng thành cho lấy một mụn con, dù
trai dù gái đều nhờ vào đức lớn của Phật cả. Lễ cầu Phật xong, nửa đêm hôm ấy,
nằm mơ thấy đi qua một dãy nhà cửa, lầu điện nguy nga. Có một người mặc áo xanh
tay cầm cành phan dẫn vào một tầng thấy cung điện sáng rực, các quan theo hầu
la liệt. Nghe có tiếng bảo rằng: Dẫn hai vợ chồng vào nội điện. Quan mặc áo
xanh tiếp tục dẫn đi một đoạn nữa thấy lâu đài rộng rãi, hai bên có cờ quạt,
binh sỹ rất là nghiêm chỉnh. Trước điện có một bệ đá, quan mặc áo xanh quỳ xuống
tâu rằng:
Vâng Ngọc Hoàng sắc chỉ, dẫn hai
vợ chồng Thành đến trước điện. Trong lúc ấy vợ chồng Ông Thành bàng hoàng kinh
sợ quỳ tại trước bàn, trông thấy tầng trên có một vị quan, Đầu đội mũ bách
tinh, mình mặc áo hoàng bào, ngồi rất nghiêm chỉnh. Nói lớn bảo rằng, vợ chồng
nhà ngươi đã thành tâm làm phúc, thấu đến thiên không. Lên trời cho một vị tiên
nữ tên là Giáng Kiều xuống đầu thai làm con. Vợ chồng nhà ngươi lên cẩn thận.
Nói xong chợt thấy một tiếng sấm động rất to, bèn tỉnh dậy. Biết là giấc mộng
tốt, sáng hôm sau, vợ chồng làm lễ tạ trước Phật. Trở về nhà được vài tháng
thấy vợ có thai, sau 12 tháng, đến tháng 4 ngày 12 sinh hạ được một người con
gái rất xinh, môi hồng má phấn , mắt phượng mày ngài, người thường thật là khó
ví. Vợ chống rất mừng, thật sự yêu mến. Chợt nhớ đến điềm mộng trước, không dán
đặt tên thường gọi là, đệ nhất Nương Tử.
Đến năm 12
tuổi cả cha và mẹ đều mất, Nương Tử ở theo Dì ở tại Đại trạch xã.
Đến năm 14
tuổi dì muốn gả chồng, Nương Tử không nghe từ đó phát tóc xuất gia, trai giới
ăn theo Phật. Một ngày nghe tin ở chùa Phật Tích có một vị thiền sư tên là Từ
Đạo Hạnh rất là cao tăng đạo đức. Nương Tử xin vào học đạo thiền sư. Nương Tử
vốn đã biết trước tất cả những kinh nhà Phật, lên chỉ học trong vài tháng, đã
đại tinh thông những tài lạ. Gọi gió, gọi mưa, có phép hay làm, sấm , chớp,
biến tướng tàng hình, đi và đến mọi người không thể biết. Thật là một người
Nương Tử siêu việt. đạo sỹ, thiền sư rất yêu mếm kính trọng, cho nên Nương tử
tự đặt tên là Pháp Thông.
Nương Tử đã
học đắc đạo trở về Xuân Lan Thôn, tự mình làm lấy một chùa ở tại đầu thôn để tu
ngày đêm, trai giới tụng niệm chân kinh. Xuân Lan, Đại Trạch nội ngoại hai
thôn, những người nghèo đều được giúp đỡ. Những người ốm đau điều được cứu
chữa, lên nhân dân hai thôn nhớ công đức ấy, quý như mặt trăng, mặt trời, thân
như cha mẹ.
Năm ấy ngày 15
tháng 8 , Nương Tử tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo, thiết lập hương án trước sân,
đốt hương cầu khấn tụng niệm chân kinh, đêm mùa thu trời quang trăng tỏ chợt có
đám mây đen ở trên đầu hạ xuống một thoáng. Trời đất tối đen mưa gió ào ào, sấm
chớp ầm ầm, Nương Tử biến vậy, năm đó Nương Tử 18 tuổi. Nương Tử hóa, chỉ còn
quần áo cũ để lại. Nhân dân biết rõ sự việc đều cảm công đức của Nương Tử, bèn
đem quần áo cũ của Nương Tử táng tại trong chùa, tạo thần tượng. Tả thần hiệu,
viết Pháp Thông Phật. Nhận ngôi chùa đấy để làm đền thờ,
Ngay lúc ấy xã
Đại Trạch biết được việc ngài đã hóa, nhớ tới công đức cũng thiết vị tại chùa
cứ đến hàng năm tháng tư ngày sinh Phật, nhân dân tới Phương Lan xã, Xuân Lan
thôn rước Phật trở về sở tại, để thờ cúng từ đó hai thôn đều phụng sự trở thành
lệ thường hàng năm.
Lại nói từ khi
Phật hóa rất là linh ứng, cầu phong đắc phong, cầu vũ đắc vũ, thường ngày giúp
nước, giúp dân rất là linh ứng.
Đến đời Trần
vua Nguyên sai Ô Mã Nhi đem quân sang xâm chiếm nước ta, đóng tại đại đồn ở
Bạch đầu giang.
Vua Trần Thánh
Tông sai ông Hưng Đạo Đại Vương trần Quốc Tuấn làm đại nguyên súy thống lĩnh ba
quân đem quân đánh giặc, Hưng Đạo Vương sai con Trần Hưng Hồng Vương cầm quân
tiến về đạo Kinh Bắc qua chùa Xuân Quan, Vương có vào làm lễ xin để phù hộ đánh giặc Nguyên, sau khi dẹp yên giặc
đất nước được thanh bình xin viết biểu dâng Vua, tâu lên Vua xin phong sắc để
nêu rõ sự linh ứng của người.
Làm lễ xong đã
chiều, Vương đóng quân tại đấy, Đức An phủ, đến nửa đêm thấy trong chùa sáng
rực hương xạ thơm lừng. Thấy một vị tiên nữ từ trên trời đi thẳng xuống, mình
mặc áo vàng, đi thẳng vào ngồi ở trước điện nói rằng, Ta là Đại Thánh Pháp
Thông Vương Phật, Ngọc Hoàng sai ta coi giữ tứ Pháp trưởng, Phong Vũ chi Thần,
làm chủ tể địa phương này. Thấy nước nhà có giặc Nguyên xâm lược, Vua sai quan
quân đi đánh, ta nguyện giúp đỡ để thấy rõ sự linh ứng, nói xong thì biến. Ông
Trần Hưng Hồng liền vào làm lễ bái tạ, lập tức cử binh tiến đánh. Quân tiến đến
cõi giặc, chưa đánh giặc đã tự tan, người cùng tất cả các danh tướng chém được
Ô Mã Nhi, từ đó giặc Nguyên không dám xâm chiếm nữa.
Kéo quân thắng
trận trở về, viết biểu dâng Vua nói lên sự linh ứng ở chùa Xuân Quan đã có công
giúp phá giặc. Vua trần bèn phong sắc chỉ nguyên theo lời tâu phong là Đại
Thánh Pháp Thông Vương Phật linh ứng. Sai quan đem sắc chỉ về dâng tế lễ, cho
nhân dân cổ tiền để sửa sang tượng Phật phụng sự.
Về sau rất là
linh ứng, cầu phong đảo vũ rất là linh nghiệm. cho lên được sắc phong đời đời
hương hỏa, cho muôn đời sau không bao giờ dứt, chuẩn cho Phương lan xã, Xuân
Lan thôn, giữa Đại Trạch xã đồng phụng sự.
Ngày 12/04 là
ngày sinh nhật làm lễ trai giới, thanh khiết, ca sướng, đánh cờ. Hàng năm cứ
đến ngày mồng 7/4 hạ tòa.
Qua so sánh,
đối chứng có thể dễ dàng nhận thấy sự giống nhau đến mức kỳ lạ, giữa chùa Xuân
Quan và chùa Dâu, chùa Dàn Câu, chùa Tổ, Chùa Tướng các chùa thờ Mẫu Man Lương
và tứ Pháp. Trên tất cả các phương diện, cấu trúc, bài trí, nội dung, thờ cúng
và sinh hoạt Phật giáo chùa Xuân Quan chính là bổ xung sống của Ông Thành là
người Xuân Quan và bà Nguyễn Thị Nga người thôn Đại trạch. Pháp Thông theo thầy
học đạo tại núi Phật tích Tiên Sơn, thành Phật Pháp Thông chủ tứ Pháp rồi làm
chủ tể địa phương này.
Pháp Thông là
người có quan hệ máu thịt với Đại trạch, lại ra sức cứu giúp nhân dân Đại Trạch
khi gặp khó khăn, dịch bệnh, Pháp Thông cùng nhân dân Xuân Quan còn có công lớn
trong việc giúp tướng trần hồng đánh thắng quân Nguyên, vì những lẽ đó, nhân
dân đại trạch, luôn hàm ơn Pháp Thông và tỏ ró trách nhiệm, trong việc gìn giữ
ngôi chùa Xuân Quan và tổ chức thờ cúng Pháp thông hàng năm vào ngày 12 tháng 4
âm lịch, nhân dân đại trạch về thờ cúng và dự hội ngày hội đó được gọi thẳng
bằng cái tên ghi đậm dấu ấn lịch sử. hội tạ ân
Bên phải là nơi thờ thân phụ,
thân mẫu
Bên trái là nơi thờ thành hoàng
làng Linh Nại Đại vương, một nhân vật thời Hùng Vương, có công khai mở vùng đất
này, việc thờ cúng Linh Nại đại vương chính là một ánh xạ đầy lấp lánh của sự
hình thành điểm tụ cư Việt cổ xuất lai dân xã, từ buổi đầu dựng nước trong lịch
sử dân tộc
Sắc phong Thành Hoàng làng (Linh
Nại Đại Vương)
Sắc Bắc Ninh tỉnh, Thuận Thành Phủ, Siêu Loại huyện, Phương
Quan xã, Xuân Quan thôn,
Tòng tiền phụng sự nguyên tặng, diệu cảm mặc phù, chương hiển đôn nghi, dực bảo trung hưng thành hoàng
linh ứng tôn thần, hộ quốc , tý dân, niệm trứ linh ứng, tiết mông đầu cấp
Sắc phong chuẩn hứa phụng sự, tứ kim chính trực, Trẫm tứ
tuần đại khánh tiết, kính đầu bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, trứ gia tặng
tĩnh hậu trung đẳng thần đặc chuẩn,
phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân lễ điển
khâm tải
Dịch nghĩa:
Sắc Bắc Ninh tỉnh, Thuận Thành Phủ, Siêu Loại huyện, Phương
Quan xã, Xuân Quan thôn,
Như trước đã phong diệu
cảm mặc phù, chương hiển đôn nghi, dực bảo trung hưng thành hoàng linh ứng tôn
thần bảo vệ đất nước, che chở nhân dân, niệm danh sẽ ứng, tứ kim chính
trực. Ngày mừng Trẫm 40 năm ở ngôi vua , việc đầu tiên là ban ân báu đến muôn
nơi, xét công đặc chuẩn gia phong là tĩnh
hậu trung đẳng thần, hướng về Trẫm trong ngày vui mở nước.
Cứ thế
Công Đồng
Đức Ông
Thánh Hiền
Địa Tạng
Tam bảo hậu là nơi thờ phật,
tương tự như tòa tam bảo của các ngôi chùa khác, có tượng tam thế, tượng di đà,
di lặc, thích ca đản sinh, tượng quan âm và một số pho tượng khác
Quan Âm
Quan Âm tống tử
Tam Bảo
Bát bộ kim cương
Nhà mẫu là nơi thờ các vị anh
hùng dân tộc, Cha, Mẹ, đã hiển Thánh cứu nhân độ thế, chính giữa là thờ tam tòa Thánh Mẫu, ngũ vị Tôn Ông, tam Hoàng Thái Tử
Bên phải thờ Trần triều Hưng Đạo Đại Vương
Bên trái thờ bà Chúa Sơn trang và
thập vị Tiên Nàng
Hầu bóng
Tiền đường trùng tu năm Khải Định
thứ 5 (1920), 2011
Trải qua bao thay đổi trong lịch sử, chùa hiện còn 3 tòa nhà chính, kết cấu khá đặc biệt. Thoạt nhìn, mặt bằng tổng thể chùa có hình chuôi vồ mà nội
thất gồm tiền đường - thiêu hương - thượng điện. Song tòa thượng điện lại ngăn
cách với khối kiến trúc phía trước bằng một rãnh thoát nước.
Do đó, chính khối kiến trúc tiền - thiêu hương mới là khối
kết cấu chuôi vồ, còn tòa thượng điện, cả mái và nền, gần như gắn liền với khối
ấy, nhưng thực ra đã được xây dựng tách hẳn ra. Tòa tiền đường: có quy mô lớn
nhất của khu di tích. Phần khung gỗ, tiền đường được làm bằng gỗ lim, còn khá
chắc chắn, kết cấu theo kiểu chồng giường giá chiêng, con chồng đơn, tiền bảy
hậu bảy.
Phần nề, tòa tiền đường có tường xây bao kín xung quanh,
lợp ngói mũi nhỏ thông thường. Tòa Thiêu hương: là tòa nhà 3 gian có kết cấu
theo lối chồng giường giá chiêng nhưng quy mô nhỏ hơn so với tòa tiền đường.
Tòa thượng điện: gồm 3 gian nằm tiếp sau tòa Thiêu hương,
nhưng phân cách với tòa Thiêu hương bằng một rãnh nước nho,. có dáng kiến trúc
đẹp, theo kiểu chồng diềm 8 mái. 8 góc mái đều tạo thành 8 đầu đao công thanh
thoát. Nhìn tổng thể, tòa thượng điện như một bông hoa sen, mà các cánh hoa là
các đầu đao, đang vươn nở giữa không trung dâng lên cõi Phật.
Ngoài việc làm đẹp
các công trình bằng cách tạo dáng các khối kiến trúc, trong từng bộ phận của cả
3 tòa nhà tiền đường,
thiêu hương, thượng điện, người thợ xây dựng đã khá kỳ công
thực hiện các đồ án trang trí bằng cách chạm nổi, chạm kênh bong... trên các
bức cốn, các đầu dư, đầu bảy. Các đồ án được thể hiện ở đây chủ yếu là hình
long hóa, từ tùng, cúc, trúc, mai hoặc băng hoa lá cách điệu. Ba đầu dư còn lại
ở tòa tiền đường là hình các đầu rồng chạm kênh bong rất sinh động, đầu rồng
trong tư thế đang vươn về phía trước, gánh đỡ các câu đầu khá lực lưỡng
Kiệu song loan rước Phật chủ thế kỷ 18
Kiệu song loan rước Thánh tử Vương Phật thế kỷ 18
Long Đình rước Thánh thế kỷ 18
Bia đá tứ diện năm Khánh Hòa 20
(1699)
Chuông Đồng đúc ngày 20 tháng 02
năm Minh Mệnh thứ 7 (1826)
Bộ ván khắc kinh thời Bảo Đại
(1926)
Thanh tâm tịnh sám chân kinh
Vương mẫu tiêu kiếp cứu thế chân kinh
Nghi thức rút quẻ
Vào tháng giêng đầu năm mới,
thành tâm đặt lễ, kính cẩn, chắp tay quỳ, khấn
Quẻ 1 Hỷ thắng vô nghi chi triệu –
Thuần càn
|
|
TỔNG THI
Cây
đức nhân dân vẫn đắp bồi
Xem
bông hoa nở, nụ hoa cười
Cảnh
xuân hớn hở đua mừng chủ
Quả
phuc trời cho hưởng đến nơi
|
PHẦN MỘ
Nắm
xương dưới đất vẫn còn mong
Con
cháu trên đời có biết không
Chớ
đón manh sư mà mất tướng
Trở
về tích đức háy tầm long
|
SỐ MỆNH
Số
phận xem ra cũng lạ lùng
Mấy
lần trắc trở, Mấy lần thông
Mới
hay khôi việt lâm vào mệnh
Gặp
bước làm lên đến tít mùng
|
CẦU TÀI
Nhân
tình ai chẳng muốn cầu tài
Cầu
cạnh sao cho lại với trời
Tìm
cách sinh nhai là đạo cả
Năm
nay, năm ngoái khác nhiều rồi
|
GIA TRẠCH
Bình
an hai chữ một nhà mừng
Tích
thiện thời lên, tích ác đừng
Gây
dựng còn nhờ tay tạo hóa
Nền
xưa nếp cũ đã ai bằng
|
XUẤT HÀNH
Khi
bước chân đi có kẻ gàn,
Gàn
mà cũng quyết mới là gan
Một
tuần khuyên cạn bầu vân dạ
Ngàn
dặm đi về đất thổ sơn
|
CẦU DANH
Một
cuộc công danh khắp mấy lần,
Phen
này chờ được hội long vân
Khi
lên trời cũng chiều thêm nữa
Phù
trợ bề ngoài có quý nhân
|
TẬT BỆNH
Tật
bệnh sinh ra cũng lạ thay
Đái
thầy, đãi thuốc đã lâu nay
Thuôc
tiên đã có trong đền thánh
Dẫu
muốn hồi sinh phải lễ ngay
|
CẦU HÔN
Tốt
duyên, tốt cả số đào hồng
Định
việc cầu hôn cũng chóng xong
Uốn
éo nơi kia cùng chốn nọ
Suy
ra chỉ tự cụ tơ hồng
|
THẤT VẬT
Đen
thế mà ra lại đỏ sao
Đỏ
lên chỉ mất có bỏ đâu
Thôi
thì mất của thay người vậy
Trời
lại đền cho cái khác liền
|
CẦU
TỰ
Một
con, một của có ai chê
Cầu
mãi mà sao chẳng thấy chi
Ấy
hẳn túc duyên còn nặng kiếp
Mau
về đổi của lấy con đi
|
THÁNH
Ý
Chiêm
đắc thử quái, chính, tắc, hỷ thắng vô nghi, biến tắc viên ưu khả phong thập
bảo, chi trung hữu ứng ư hiện tại, hoặc ứng ư tương lai, chiêm giả bất khả,
bất tâm phục ngô ngôn
|
Nghi thức tế lễ ngày rằm tháng giêng
Quan đám
Quan đám được hội đồng hương lão
cử, khi đủ tuổi, đủ các điều kiện do lệ làng đặt ra từ cổ xưa (lối sống, ứng xử
với xóm làng, điều kiện kinh tế, con cái…). Đây là một vinh dự, vinh danh trước
nhân dân sở tại, đến ngày này họ thường tố chức sinh hoạt, xum họp nội ngoại,
mừng rước ông đám ra Đình, Chùa
Quan đám phụ trách, điều hành
việc phụng sự tại chùa trong năm.
Phó quan đám
Phó Quan đám kế tục công việc của
quan đám trong năm sau, giúp việc cho quan đán, khi quan đám đi vắng.
Mô hình tế lễ
Ban nhạc
Trống cái
|
Trống con
|
Kèn đại
|
Kèn tiểu
|
Ban tế
1
|
Quan đám (chủ tế)
|
2
|
phó quan đám
|
3
|
Chiêng
|
4
|
Trống
|
5
|
Đông xướng
|
6
|
Tây xướng
|
7
|
Nội tán
|
8
|
Ngoại tán
|
9
|
Hương
|
10
|
Hương
|
11
|
Nến
|
12
|
Nến
|
13
|
Rượu
|
14
|
Rượu
|
15
|
Lễ
|
16
|
Lễ
|
17
|
Đọc văn
|
18
|
Chuyển văn
|
Nghi thức lễ hội hàng năm (ngày
14/4 âm lịch)
Hạ tòa
Ngày 7 tháng 4 Trụ trì cùng nhân
dân trong thôn, làm lễ, bao sái, thay mũ, y phục, sau đó rước Thánh tử vương
phật, Phật chủ ra khỏi cung và ngự ở song loan.
Cùng làm lễ với thôn Xuân Quan,
còn có các thôn như Đại Trạch, Ô Chì, Gia Lâm.
Ngày 11 rước về chùa thôn Đại
Trạch làm lễ tạ ân
Đội hình thôn Đại trạch đến cung nghinh Phật chủ
Tiền
|
Cờ lệnh
|
Cờ quân
|
|
Trung
|
12 Đồng nam (12 tay gậy bảo vệ,
dẹp đường)
|
Dàn nhạc, chiêng, trống
|
|
Hậu
|
Đại diện,
các cụ hai giới, chính quyền thôn Đại Trạch
|
Làm lễ cung nghinh Phật chủ
|
Đội hình rước Phật chủ
Tiền
|
Cờ lệnh
|
Cờ quân thôn Xuân Quan
|
|
Cờ quân thôn Đại Trạch
|
|
Trung
|
12 Đồng nam (12 tay gậy bảo vệ,
dẹp đường) Xuân Quan
|
Dàn nhạc, chiêng, trống Xuân
Quan
|
|
Kiệu Thánh tử vương Phật (8
đồng nam)
|
|
12 Đồng nam (12 tay gậy bảo vệ,
dẹp đường) Đại Trạch
|
|
Dàn nhạc, chiêng, trống Đại
Trạch
|
|
Các vãi đội cầu, cầm phướn
|
|
Kiệu Phật chủ (12 đồng nam)
|
|
Hậu
|
Đại diện,
các cụ hai giới, chính quyền địa phương, nhân dân,
quý khách
thập phương
|
An kiệu Phật chủ
|
Chùa Huệ Trạch
có ngày hôm nay là do công sức gieo duyên của Đảng, Chính quyền, Nhân dân thôn
Xuân Quan, của xã Trí Quả và của Nhân dân quanh vùng, cùng quý Phật tử gần xa.
Trong đó có một phần công sức của trụ trì, Sư thày Thích Đàm Tâm.
Sư thày Thích
Đàm Tâm tên khai sinh là Vương Thị Bích sinh năm nhâm tý, trong một gia đình
nông dân thuộc thôn Phúc Lâm, xã Nghĩa Đạo, Huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Một
miền quê thuần Việt của cư dân Bắc Bộ, đồng chua nước mặn, mùa hè ngập nước,
sình lầy, mùa đông khô hạn, cỏ dại hoang
sơ. Nơi sinh sống của các loài cua ốc, rắn ếch, côn trùng. Cuộc sống người dân
nơi đây thật khó khăn, cơ cực. Ngày hai bữa thất thường ngô khoai độn cơm. Từ
khi sinh ra đến năm 8 tuổi, một cô bé mảnh mai, xinh xắn, nói năng nhỏ nhẹ,
nhưng tính khí can trường, và quyết đoán. Khi trời sáng chưa rõ mặt người đã
gióng ngựa lên xe, một mình đánh thẳng xuống cánh đồng tam thiên mẫu, cách nhà
2 km, cắt đầy xe cỏ rồi lại đánh ngựa về nhà, hái rau, nấu cơm, ăn vội vàng rồi
chạy bộ ra lớp với chiếc bút chì và quyển vở cũ.
Năm năm sau cô
bé hôm nào đã trở thành thiếu nữ, phổng phao, đoan trang. Cảm cái nết ngoan
hiền, chăm chỉ, có gia đình khá giả trong làng, muốn dạm hỏi về làm dâu con nhà
họ. Tự nhiên người đang khỏe liền đổ bệnh, sốt cao mê sảng, chỉ đòi xuống tóc
đi tu, không lấy chồng. Cha mẹ thấy điềm lạ, cũng thể theo nguyện vọng tìm chùa
để gửi.
Chùa
Văn Quan, cánh cửa mở rộng đón vị bồ tát về nơi thứ thách cho cuộc đời tu học
16 năm. Với một thời gian biểu khổ hạnh, và một quyết tâm sắt đá.
3 giờ Sáng thức dậy, học tụng
kinh
4 giờ quét dọn, bao sái,
5 giờ ra đồng trồng, cấy, thu
lượm 9 sào ruộng
12 giờ về nấu cơm
13 giờ ra đồng
17 giờ tụng kinh
18 giờ về quét dọn, nấu cơm, ăn
uống,
19 giờ tắm rửa, học tụng kinh,
22 giờ tiếp tục dọn dẹp, làm việc
24 giờ đi ngủ
một năm 1 bộ quần áo, ngủ 2, 3
tiếng, cơm cà dưa, không thuốc men, ngoài thời gian tụng kinh, làm việc là thời
gian nghe cụ chửi. Cũng đôi khi nước mắt nhòa my, cứ như vậy liên tục 16 năm. Rồi
có một ngày, chắp tay vái, quỳ lạy Cụ, xin được nhận Chùa riêng. Cụ xé lấy
miếng vải đình màn của chiếc màn cũ làm quà, quần áo, màn, cũ gói vào chiếc
khăn vuông, cột lên chiếc xe đạp cũ, hành lý của người đi, trời mưa tầm tã. Bác
bạch Cụ, nếu Trời, Phật cho con đi ở riêng thì 9 giờ mưa tạnh, bằng không con
sẽ ở lại. 8 giờ mưa tạnh hẳn, mặt trời đổ nắng chói trang, gió nhè nhẹ thổi. 29
tuổi đời, 16 năm tuổi đạo, 9 giờ sáng , vẫn còn đầy nước mắt đang chảy vào
trong.
Chùa Xuân Quan
chờ đón vị bồ tát năm xưa, không phải đi ở riêng mà là trở về. Thầy là ai, từ
đâu đến, sẽ về đâu. Thử thách, cơ khổ, vẫn còn. Rồi chiếc xe ngựa chở cỏ năm
xưa, sẽ là con thuyền đưa nhân dân nơi đây tới miền cực lạc, đúng là Thiên
mệnh.
NAM MÔ PHẢ CÚNG GIÀNG BỒ TÁT MA HA TÁT
Các mốc thời gian tiêu biểu
STT
|
Thời gian
|
Triều đại
|
Nhân vật
|
Sự kiện
|
1
|
601
|
Tùy
|
Tuệ Nhã pháp sư
|
Xây tháp, đặt xá lị
|
2
|
1100 - 1116
|
Lý
|
Đức Phật chủ
|
Đức Phật chủ
|
3
|
1288 - 1400
|
Trần
|
Trần Hưng Hồng
|
Xây lại chùa
|
4
|
1699
|
Hậu Lê
|
Nhân dân
|
Trùng tu
|
5
|
1826
|
Nguyễn
|
Nhân dân
|
Đúc chuông
|
6
|
1992
|
CHXHCN
Việt
|
Nhân dân
|
Công nhận DTLS cấp quốc gia
|
7
|
2000 - 2014
|
Xây dựng, Tu tạo
Tam quan, Tiền đường, Nhà tổ, Tam bảo hậu, nhà mẫu
|
||
8
|
2013
|
Công nhận bia sá lị là báu vật quốc gia
|
Thuận Thành tháng 3 năm 2014